✨Cần Giuộc (huyện)

Cần Giuộc (huyện)

Cần Giuộc là một huyện nằm ở phía đông bắc tỉnh Long An, Việt Nam.

Địa lý

Huyện Cần Giuộc nằm ở phía đông nam của tỉnh Long An, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Nhà Bè và huyện Cần Giờ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh Phía tây giáp huyện Bến Lức Phía nam và tây nam giáp huyện Cần Đước Phía bắc giáp huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 215,10 km², dân số là 214.914 người, mật độ dân số đạt 999 người/km².

Cần Giuộc nằm ở vành đai vòng ngoài của vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, là cửa ngõ của Thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long qua Quốc lộ 50, từ Biển Đông qua cửa sông Soài Rạp và hệ thống đường thủy thông thương với các tỉnh phía Nam.

Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Bến Lức – Long Thành đi qua đang được xây dựng.

Địa hình

Địa hình Cần Giuộc mang đặc trưng của đồng bằng gần cửa sông, tương đối bằng phẳng, song bị chia cắt mạnh bởi sông rạch. Địa hình thấp (cao độ 0,5 – 1,2m so với mặt nước biển), nghiêng đều, lượn sóng nhẹ và thấp dần từ Tây Bắc sang Đông Nam. Sông Rạch Cát (còn gọi sông Cần Giuộc) dài 32 km, chảy qua Cần giuộc theo hướng Bắc – Nam, đổ ra sông Soài Rạp, chia Cần Giuộc ra làm 2 vùng với đặc điểm tự nhiên, kinh tế khác biệt. Vùng thượng có cao độ so với mặt biển 0,8 – 1,2m, địa hình tương đối cao ráo. Hiện nay hầu hết diện tích đã được ngăn mặn nhờ hệ thống công trình thủy lợi đê Trường Long, đê Phước Định Yên và cống – đập Trị Yên, cống – đập Mồng Gà. Vùng thượng gồm: Thị trấn Cần Giuộc và 7 xã là Long An, Thuận Thành, Phước Lâm, Mỹ Lộc, Phước Hậu, Long Thượng, Phước Lý Vùng hạ có 7 xã là: Long Phụng, Đông Thạnh, Tân Tập, Phước Vĩnh Đông, Phước Vĩnh Tây, Phước Lại, Long Hậu. Vùng hạ có cao độ so với mặt nước biển 0,5 – 0,8m, có mật độ sông rạch tự nhiên dày đặc. Một số khu vực thấp cục bộ là lòng sông cổ chưa được phù sa bồi lắng lấp đầy, cao độ chỉ 0,2 – 0,4m. Công trình thủy lợi cống, đập Ông Hiếu với tuyến đê dài 11,85 km phục vụ ngăn mặn trữ ngọt cho trên 2.000 ha sản xuất lúa 2 vụ/năm. Còn lại hầu hết diện tích vùng hạ thích hợp cho sản xuất lúa 1 vụ và nuôi thủy sản.

Khí hậu

Cần Giuộc mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa và ảnh hưởng của đại dương nên độ ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt độ và tổng tích ôn cao, biên độ nhiệt ngày và đêm giữa các tháng trong năm thấp, ôn hòa.

Nắng hầu như quanh năm với tổng số giờ nắng trên dưới 2.700 giờ/năm.

Nhiệt độ không khí hàng năm tương đối cao: Nhiệt độ trung bình năm là 26,9 °C Nhiệt độ trung bình mùa khô là 26,5 °C Nhiệt độ trung bình mùa mưa là 27,3 °C Tháng nóng nhất là tháng 4 và 5 là 29 °C Tháng mát nhất là tháng 12 và tháng 1 là 24,7 °C Nhiệt độ cao nhất trong năm có thể đạt 40 °C và thấp nhất 14 °C.

Một năm chia ra 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 với tổng số lượng mưa chiếm từ 95 – 97% lượng mưa cả năm. Tháng mưa nhiều nhất là tháng 9 và tháng 10 Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, lượng mưa mùa nầy chỉ chiếm từ 3 – 5% tổng lượng mưa cả năm.

Tổng lượng mưa bình quân 1.200 – 1.400 mm/năm.

Độ ẩm độ không khí trung bình trong năm 82,8%, trong mùa khô độ ẩm tương đối thấp: 78%.

Lượng bốc hơi trung bình 1.204,5 mm/năm.

Chế độ gió theo 2 hướng chính: Mùa khô thịnh hành gió Đông Bắc Mùa mưa thịnh hành gió Tây Nam.

Tài nguyên đất

Đất Cần Giuộc thành tạo bởi phù sa trẻ của hệ thống sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ, tạo nên đồng bằng gần cửa sông với các đặc trưng sau: Đất mặn, phèn chiếm 48,34% diện tích tự nhiên với 10.103 ha, có thành phần cơ giới nặng (tỉ lệ sét vật lý cao 50 – 60%) và nồng độ độc tố cao (SO42-, Cl-, Al3+, Fe2+, ...), ít thích hợp cho sản xuất cây trồng cạn, nhưng lại là nơi trồng lúa thơm và lúa đặc sản (Tài nguyên, Nàng thơm, Hương lài – khaodawk Mali, ...) cho chất lượng cao và nuôi thủy sản nước mặn – lợ (tôm sú, cá nước lợ, cua lột, ...) có hiệu quả. Đất phù sa 4.132 ha, phân bố chủ yếu ở các xã Vùng thượng là loại đất tốt nhất, có thành phần cơ giới thịt trung bình, do khai thác lâu đời nên hàm lượng N, P, K tổng số từ trung bình đến nghèo, độ pH KCL 5,5 – 6,2; đặc biệt có một số nguyên tố vi lượng với nồng độ khá cao (Bore, Cobal, Kẽm, Molipden). Đây là vùng đất thích hợp cho trồng rau và lúa đặc sản chất lượng cao, do tính chất đất tạo nên lợi thế cho sản phẩm hàng hóa có hương vị đặc biệt.

Tài nguyên nước

Tài nguyên nước mặt của Cần Giuộc khá dồi dào, với sông Cần giuộc, Cầu Tràm, Mồng Gà, Kinh Hàn, Soài Rạp và hơn 180 kinh rạch lớn nhỏ khác. Tuy nhiên, do gần Biển Đông, chịu ảnh hưởng của thủy triều nên nguồn nước các sông đều bị nhiễm mặn (độ mặn các sông chính Vùng hạ từ 7 – 15% vào mùa khô), ảnh hưởng không tốt đến nguồn nước dùng cho sản xuất và đời sông dân cư, song lại thích hợp cho nuôi thủy sản nước lợ. Từ sau ngày giải phóng đến nay, Nhà nước và nhân dân Cần Giuộc đã có nhiều nỗ lực xây dựng các công trình thủy lợi ngăn mặn, trữ ngọt như Đập Ông Hiếu, Mồng Gà, Trị Yên, hàng trăm km kinh nội đồng, nhiều cống đầu mối, đã đáp ứng một phần nhu cầu nước cho sản xuất và đời sống của nhân dân.

Nguồn nước ngầm phân bố không đều trên địa bàn Cần Giuộc. Ở các xã Vùng thượng nguồn nước ngầm có trữ lượng khá, các giếng khoan ở độ sâu 100 – 120m chất lượng nước có thể khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, ở các xã Vùng hạ trữ lượng nước ngầm từ ít đến rất ít, tầng nước xuất hiện ở độ sâu 200 – 300m, chất lượng kém, hàm lượng Fe2+, muối cao nên việc khai thác nước ngầm phục vụ đời sống và sản xuất phải qua các khâu xử lý rất tốn kém. Hiện trên địa bàn Cần Giuộc có trên 1.200 giếng nước ngầm, hiện tượng khai thác quá mức có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước (đã có hiện tượng khai thác quá mức, gây tụt áp 1 – 2m vào mùa khô). Nhà nước khuyến cáo dân không nên lạm dụng khai thác nước ngầm cho sản xuất mà cố gắng tận dụng nguồn nước mặt bằng cách nạo vét kinh rạch, vận hành các cống hợp lý để tăng trữ lượng nước ngọt phục vụ nhu cầu trong mùa khô.

Thủy văn

Cần Giuộc có vị trí gần Biển Đông, lại ở ngay cửa sông lớn (sông Soài Rạp) nên sông rạch ở Cần Giuộc chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều của Biển Đông với biên độ triều lớn. Biên độ triều trong năm biến thiên trong khoảng 3,95 m. Đỉnh triều trong năm cao nhất vào tháng 3, 4 (H max – 170 cm); mặt nước triều thấp nhất vào tháng 8, 9 (H min – 284 cm). So với cao trình mặt đất bình quân 0,5 – 1,2 m, chế độ triều như vậy rất thích hợp cho việc đào ao đầm nuôi thủy sản; việc cấp nước và tiêu nước hoàn toàn tự chảy theo triều. Tuy nhiên, nếu triều cường kết hợp với mưa cường độ cao, nhất là khi có lũ đầu nguồn, nhiều nguy cơ phá vỡ đê đập ngăn mặn hoặc đê bao nuôi thủy sản. Trên thực tế hàng trăm huyện đã phải chi hàng trăm triệu đồng để tu bổ hệ thống đê, đập ngăn mặn và cũng có vài năm dân Vùng hạ bị thiệt hại hàng trăm hecta nuôi thủy sản do mực nước triều vượt đê.

Lịch sử

Thời kỳ trước năm 1859

Thời kỳ trước năm 1859, thời khẩn hoang mở đất, xác lập tổ chức hành chính của Nhà nước triều Nguyễn.

Cần Giuộc thuộc đất Gia Định xưa – một thời còn gọi là "xứ Đồng Nai", nơi đã hình thành nước Phù Nam vào thế kỷ thứ nhất và bị Chân Lạp chinh phục vào thế kỷ VI. Các kết quả khảo cổ tại di tích lịch sử khảo cổ học Chùa Núi (thuộc xã Đông Thạnh) cho thấy vùng đất Cần Giuộc cách nay 2.000 - 3.000 năm đã có người sinh sống nhưng do địa thế đất đai chưa ổn định nên đến cuối thế kỷ XVI hầu hết vùng này vẫn còn là rừng rậm hoang vu. Vào đầu thế kỷ XVII, một lớp lưu dân người Việt từ phía Bắc tha phương cầu thực hoặc chạy nạn thiên tai, nạn Nhà Trịnh – Nhà Nguyễn phân tranh, nội loạn Lê – Trịnh, vào xứ Đồng Nai, Sài Gòn khai hoang lập ấp; có một bộ phận là những người tù tội bị lưu đày biệt xứ. Về sau còn có thêm những binh lính đào ngũ, rã ngũ trong thời kỳ tranh chấp Nguyễn Ánh – Tây Sơn. Đặc biệt, vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, những quan lại, những người có tiền của, quyền thế mang theo nô tỳ và chiêu mộ dân nghèo vào phương Nam khẩn đất theo chính sách "dinh điền" của Nhà Nguyễn.

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh được cử vào Nam kinh lý, lấy đất Nông Nại (từ bờ biển Vũng Tàu vào Sài Gòn đến Sông Vàm Cỏ) đặt làm phủ Gia Định. Phủ Gia Định gồm 2 huyện: Phước Long trên vùng đất Đồng Nai, Tân Bình trên vùng đất Sài Gòn. Vùng Cần Giuộc thuộc huyện Tân Bình.

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, năm 1808 đổi trấn Gia Định làm thành Gia Định.

Năm 1832, Minh Mạng thứ 13, thành Gia Định được phân chia lại từ 5 trấn thành 6 tỉnh (gồm Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) với 14 phủ, 41 huyện, lúc đó Cần Giuộc nằm trong huyện Phước Lộc, thuộc phủ Tân An, tỉnh Phiên An.

Năm 1836, sau khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng lại đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định và gọi toàn thành Gia Định là Nam Kỳ. Khái niệm Nam Kỳ - Lục tỉnh ra đời từ đấy.

Đến năm 1859, Pháp bắt đầu xâm lược Nam Kỳ. Lúc này tổ chức hành chính đã ổn định toàn cõi Nam Kỳ. Đất Cần Giuộc vẫn nằm trong huyện Phước Lộc, là một trong 4 huyện của phủ Tân An, thuộc tỉnh Gia Định.

Thời kỳ Pháp thuộc 1862 – 1945

Sau năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường), chia tỉnh Gia Định làm 7 hạt; cai trị là chức quan tham biện nên còn gọi hạt là khu tham biện. Hạt nhỏ hơn phủ nhưng lớn hơn huyện. Phước Lộc thành khu tham biện riêng (tiền thân 2 huyện Cần Giuộc, Cần Đước). Tên gọi Cần Giuộc xuất hiện với tư cách là một đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày 9 tháng 11 năm 1864.

Năm 1877, khu tham biện Phước Lộc giải thể, sáp nhập vào khu tham biện Chợ Lớn.

Năm 1899, bãi bỏ khu tham biện, Chợ Lớn đổi thành tỉnh, Cần Giuộc trở thành một quận của tỉnh Chợ Lớn (bao gồm cả địa bàn Cần Đước).

Năm 1923, tỉnh Chợ Lớn có 4 đại lý, sau gọi là quận: Cần Giuộc, Cần Đước, Trung Quận, Đức Hòa.

Năm 1939, quận Cần Giuộc gồm ba tổng: Tổng Phước Điền Thượng có 6 làng: Hưng Long, Long Thượng, Phước Lý, Quy Đức, Tân Kim, Tân Quý Tây Tổng Phước Điền Trung có 6 làng: Long An, Mỹ Lộc, Phước Hậu, Phước Lâm, Thuận Thành, Trường Bình *Tổng Phước Điền Hạ có 8 làng: Đông Thạnh, Long Đức Đông, Long Hậu Tây, Long Phụng, Phước Lại, Phước Vĩnh Đông, Phước Vĩnh Tây, Tân Tập. Quận lỵ đặt tại làng Trường Bình thuộc tổng Phước Điền Trung.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập ở Nam Bộ 3 khu: 7, 8, 9. Cần Giuộc là một quận nằm trong tỉnh Chợ Lớn thuộc khu 7. Tỉnh Chợ Lớn lúc này gồm 4 quận: Đức Hòa, Trung Quận, Cần Giuộc, Cần Đước.

Tháng 7 năm 1957, Liên Tỉnh ủy Tân An – Chợ Lớn hợp nhất hai tỉnh thành tỉnh Long An, tách Mộc Hóa ra thành lập tỉnh Kiến Tường.

Thời kỳ Việt Nam Cộng hòa 1955-1975

Cuối năm 1956, chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam Tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhập tỉnh Chợ Lớn với tỉnh Tân An thành tỉnh Long An, quận Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An.

Năm 1957, chính quyền sáp nhập 3 xã: Hưng Long, Quy Đức và Tân Quý Tây thuộc tổng Phước Điền Thượng vào quận Bình Chánh mới thành lập thuộc tỉnh Gia Định. Cùng năm, tổng Dương Hòa Hạ (gồm 4 xã: Long Đức, Nhơn Đức, Hiệp Phước và Phú Lễ) vốn trước đó thuộc quận Nhà Bè, tỉnh Gia Định và tổng An Thịt (gồm 4 xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn và Tam Thôn Hiệp) vốn trước đó thuộc quận Cần Giờ, thị xã Vũng Tàu được sáp nhập vào quận Cần Giuộc.

Từ đó, quận Cần Giuộc có 4 tổng: An Thịt, Dương Hòa Hạ, Phước Điền Hạ và Phước Điền Trung.

Năm 1958, sáp nhập xã Phú Lễ và xã Long Hậu Tây thành một xã lấy tên là xã Long Phú Tây.

Năm 1959, tách tổng An Thịt để thành lập quận Quảng Xuyên thuộc tỉnh Phước Tuy.

Năm 1961, hai xã Long Đức và Nhơn Đức được trả lại cho quận Nhà Bè.

Từ năm 1962 chính quyền bỏ dần, đến năm 1965 bỏ hẳn cấp hành chính tổng, các xã trực tiếp thuộc quận.

Năm 1963, chính quyền đổi tên quận Cần Giuộc thành quận Thanh Đức. Tuy nhiên, đến năm 1965, quận được đổi lại tên cũ là Cần Giuộc.

Năm 1967, chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam dưới quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tách 8 xã của quận Cần Đước, nhập thêm một phần quận Cần Giuộc gồm: xã Phước Lý; ấp Thuận Tây của xã Thuận Thành; các ấp Long Đức, Phước Thuận của xã Phước Lâm và ấp Long Giêng của xã Phước Hậu để thành lập quận Rạch Kiến.

Đến năm 1970, quận Cần Giuộc có 17 xã: Đông Thạnh, Hiệp Phước, Long An, Long Đức Đông, Long Phú Tây, Long Phụng, Long Thượng, Mỹ Lộc, Phước Hậu, Phước Lại, Phước Lâm, Phước Vĩnh Đông, Phước Vĩnh Tây, Tân Kim, Tân Tập, Thuận Thành, Trường Bình. Quận lỵ đặt tại xã Trường Bình.

Sau năm 1975

Sau năm 1975, Cần Giuộc là một huyện thuộc tỉnh Long An, địa giới của huyện cũng được điều chỉnh lại như sau: Chuyển xã Hiệp Phước về huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh Chuyển xã Phước Lý thuộc quận Rạch Kiến vừa giải thể về huyện Cần Giuộc Sáp nhập hai xã Long Đức Đông và Long Phú Tây thành xã Long Hậu Tách một phần diện tích và dân số của xã Trường Bình để thành lập thị trấn Cần Giuộc (thị trấn huyện lỵ huyện Cần Giuộc). Huyện Cần Giuộc có 17 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Cần Giuộc và 16 xã: Đông Thạnh, Long An, Long Hậu, Long Phụng, Long Thượng, Mỹ Lộc, Phước Hậu, Phước Lại, Phước Lâm, Phước Lý, Phước Vĩnh Đông, Phước Vĩnh Tây, Tân Kim, Tân Tập, Thuận Thành, Trường Bình.

Ngày 27 tháng 4 năm 2015, thị trấn Cần Giuộc mở rộng được công nhận là đô thị loại IV.

Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 836/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Long An (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của xã Tân Kim; một phần diện tích, dân số của các xã Trường Bình, Mỹ Lộc vào thị trấn Cần Giuộc Sáp nhập phần diện tích và dân số còn lại của xã Trường Bình vào xã Mỹ Lộc.

Huyện Cần Giuộc có 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.

Hành chính

Huyện Cần Giuộc có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Cần Giuộc (huyện lỵ) và 14 xã: Đông Thạnh, Long An, Long Hậu, Long Phụng, Long Thượng, Mỹ Lộc, Phước Hậu, Phước Lại, Phước Lâm, Phước Lý, Phước Vĩnh Đông, Phước Vĩnh Tây, Tân Tập, Thuận Thành.

Văn hóa

Lễ hội tín ngưỡng dân gian: có 97 lễ hội

  1. Có 49 lễ hội là Lễ Cầu An, chủ yếu vào tháng Giêng, một vài nơi cuối tháng Chạp hoặc đầu tháng 2, đối tượng thờ là Thành Hoàng Bổn Cảnh. Lễ Cầu An ở Cần Giuộc, tuy là lễ hội được tổ chức trọng thể nhất trong các lễ hội khác ở đình làng các xã so với các lễ hội Hạ điền, Cầu bông,... nhưng về mặt quy mô vẫn ở mức trung bình, nghi thức vẫn chưa đầy đủ nên toàn bộ lễ hội ở Cần Giuộc vẫn là hội lệ

  2. Có 2 lễ hội gắn với nhân vật được thờ là Hai Bà Trưng: Miếu Lộc Trung ở ấp Lộc Trung, xã Mỹ Lộc Nguyễn Văn Thành: đình Phú Thành ở ấp Phú Thành, xã Phước Lý

  3. Có 1 lễ hội có đối tượng thờ đặc biệt là Anh hùng liệt sĩ thuộc miếu Vong Uất ở ấp Phước Hưng, xã Phước Lâm

  4. Có 6 lễ hội là cúng Hạ điền, thời gian khoảng tháng 4 đến tháng 5 thờ Thần Nông

  5. Có 8 lễ hội là cúng Cầu bông, thời gian khoảng từ tháng 9 đến tháng 11 thờ Thần Nông

  6. Có 5 lễ hội cúng bà Chúa Xứ, thờ Chúa Xứ Nương Nương chủ yếu vào tháng 2 đến tháng 3

  7. Có 19 lễ hội là cúng Bà Ngũ Hành, thờ Ngũ Hành Nương Nương, thời gian chủ yếu vào tháng 2 đến tháng 3

  8. Có 1 lễ hội là cúng Thổ Thần

  9. Có 1 lễ hội là cúng Tống phong

  10. Có 6 lễ hội là cúng Tiên sư ở ấp Mương Chài.

Tất cả lễ hội ở Cần Giuộc, múa hát thờ trong khi tế chỉ có một hình thức là nhạc lễ và diễn trò lễ:

Lễ vật dâng thánh trong Lễ Cầu An hầu hết là tế lợn sống, hoặc đầu lợn sống Lễ vật dâng thánh trong lễ cúng Hạ điền, cầu bông là gà, xôi nếp Lễ vật dâng thánh trong lễ cúng Bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành là gà, xôi nếp Có 1 lễ hội duy nhất lễ vật là đồ chay (cơm chay, trái cây) là lễ Cầu An, đình Lộc Tiền, ấp Lộc Tiền, xã Mỹ Lộc. Lý giải: do cộng đồng cư dân vùng này đa số là tín đồ đạo Cao Đài.

Không lễ hội nào ở Cần Giuộc có trò chơi dân gian.

Tất cả lễ hội ở Cần Giuộc đều đọc sớ bằng âm Hán Việt chữ quốc ngữ.

Không lễ hội nào ở Cần Giuộc có tổ chức rước (rước sắc, rước văn, rước nước, rước thánh).

Việc tổ chức hát cho dân làng xem trong lễ hội, chỉ có hình thức tuồng và cải lương, nhưng hiện nay không còn.

Lễ hội là cúng Miếu Bà Chúa Xứ, Bà Ngũ Hành, đa số có hát bóng rỗi, múa mâm vàng.

Nghề truyền thống

Huyện Cần Giuộc còn 7 nghề truyền thống:

  1. Nghề mộc: nằm rải rác ở các xã trong huyện

  2. Nghề rèn: còn 50 hộ làm nghề tại xã Trường Bình

  3. Nghề se nhang còn 71 hộ làm nghề tại 2 xã: Phước Lâm, Thuận Thành

  4. Nghề đóng ghe: chủ yếu ở các xã vùng hạ

  5. Nghề chằm lá: chủ yếu ở các xã vùng hạ Phước Vĩnh Đông

  6. Nghề đan mây tre chủ yếu ở các xã vùng thượng như: Phước Lý, Phước Lâm, Phước Hậu

  7. Nghề đánh bắt cá: chủ yếu ở các xã vùng hạ

  8. Nghề cổ truyền có số lượng người tham gia làm nghề đông nhất: Nghề chằm lá

  9. Nghề cổ truyền có số lượng người tham gia làm nghề ít nhất nhưng trên nhiều địa bàn nhất: Nghề mộc.

Nghệ thuật cổ truyền

Huyện Cần Giuộc còn tồn tại sáu loại hình nghệ thuật cổ truyền, đó là: nhạc lễ, nhạc tài tử, múa lân, dân ca (hò đối đáp, hò cấy, hát lý), lò võ, bóng rỗi tại 16 xã, thị trấn: Loại hình nghệ thuật còn tồn tại phổ biến nhất: nhạc tài tử (35 nơi), dân ca (19 nơi), nhạc lễ (15 nơi) Loại hình nghệ thuật còn nhiều nghệ nhân nhất: nhạc lễ, nhạc tài tử: 24 nghệ nhân, dân ca: 17 nghệ nhân, bóng rỗi: 12.

Phong tục tập quán

Phong tục tập quán ở Cần Giuộc về cơ bản cũng giống như ở Cần Đước. Trong 19 phong tục, tập quán truyền thống, đa số nhân dân ở Cần Giuộc không còn theo các tục lệ đầy cử, đổi tên (phần âm) cho con, bán con cho phật cho thánh, xuống đồng, hàn thực, cơm mới. Các tục lệ mừng thọ, lên lão, cúng thổ địa ít người còn theo. Tục dựng nêu, hạ nêu rất hiếm người theo và hầu như không còn ai theo.

Tại 17 xã, thị trấn huyện Cần Giuộc còn lưu giữ được 11 phong tục, tập quán truyền thống, trong đó: 8 phong tục Thôi nôi đầy tháng, Thờ cúng gia tiên, Rằm tháng Giêng, Thanh minh tảo mộ, Đoan Ngọ, Xá tội vong nhân (rằm tháng 7), trung thu, cúng ông Công ông Táo là còn nhiều người theo. 3 phong tục mừng thọ, lên lão, cúng thổ địa là có ít người theo. Việc bảo lưu phong tục tập quán ở Cần Giuộc không mang giá trị tuyệt đối về mức độ bảo lưu từng phong tục. Cụ thể trong 8 phong tục tập quán còn bảo lưu ở Cần Giuộc, có những phong tục cộng đồng còn lưu giữ nhưng không còn giữ đúng như giá trị của nó do nhiều điều kiện khác nhau.

Văn hóa ẩm thực

Cần Giuộc hiện còn các món ăn đặc sản là mắm còng, cua lột, tôm sú, cốm ngò, lịch cũ Món ăn nổi tiếng nhất ở Cần Giuộc: cốm ngò.

Tri thức dân gian

Huyện Cần giuộc hiện còn: 34 người biết chữ nho 19 người biết bói toán, xem phong thủy 45 thầy lang gia truyền 30 thầy cúng.

Di tích - Danh thắng

Toàn huyện hiện còn lại tổng cộng khoảng 14 di tích: Di tích lịch sử khu vực Rạch Bà Kiểu: ở ấp Lũy, xã Phước Lại Di tích lịch sử khu vực Cầu Kinhnơi xảy ra trận đánh đầu tiên và ác liệt nhất trong chiến dịch 45 ngày đêm đánh Mỹ ở vùng Hạ Cần Giuộc (từ 5/6 đến 20/07/1967) ở ấp I, xã Phước Vĩnh Tây Di tích lịch sử khu vực Ngã Năm Mũi Tàu: địa điểm tập trung cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) của nhân dân huyện Cần Giuộc ở xã Trường Bình Di tích lịch sử khu vực Sân banh Cần Giuộc ở thị trấn Cần Giuộc Di tích lịch sử khu vực Cầu Tre là địa điểm ghi dấu chiến công của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược cuối tháng 10 âm lịch năm 1967 ở ấp Thạnh Trung, xã Phước Vĩnh Đông Di tích lịch sử khu vực Gò Sáu Ngọc ở ấp Phước Thuận, xã Phước Lâm Di tích lịch sử khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình ở ấp Trị Yên, xã Tân Kim Di tích lịch sử khu tưởng niệm Nguyễn Trung Trực ở ấp Trị Yên, xã Tân Kim Di tích lịch sử Đình Chánh Tân Kim Di tích lịch sử văn hóa Chùa Tôn Thạnh gắn liền sự tích ông Tăng Ngộ ở ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc Di tích khảo cổ học Rạch Núi ở ấp Tây, xã Đông Thạnh Di tích kiến trúc nghệ thuật Miếu Bà Ngũ Hành ở xã Long Thượng Di tích lịch sử văn hóa Chùa Thới Bình tọa lạc tại ngã ba Vàm Rạch Dừa thuộc ấp Phước Thới, xã Phước Lại Di tích chùa Thạnh Hòa *Nghĩa trang Cần Giuộc.

Văn học

Cần Giuộc trong văn học, thi ca

*Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cần Giuộc** là một huyện nằm ở phía đông bắc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Cần Giuộc nằm ở phía đông nam của tỉnh Long An, có vị trí địa lý:
**Cần Đước** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Cần Đước nằm ở phía đông nam tỉnh Long An, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện Cần
**Cần Giờ** là một huyện ngoại thành ven biển cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Cần Giờ là huyện duy nhất giáp biển ở
**Cần Giuộc** là một xã thuộc tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. ## Địa lý Xã Cần Giuộc có vị trí địa lý: *Phía đông và phía bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh *Phía tây
**_Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc_** là một bài văn tế do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để ngợi ca, thương tiếc và kính phục những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống thực
**Sông Cần Giuộc** (hay **sông Rạch Cát**, **sông Phước Lộc**) là một dòng sông nhỏ, chảy qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh (quận 8 và huyện Bình Chánh) và tỉnh Long An (huyện
**Miếu Bà Ngũ Hành** tọa lạc tại chợ Long Thượng, xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Ngôi miếu đã được xếp hạng là _di tích cấp tỉnh_ theo quyết định Số 400/QĐ.UB,
**Khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình** ở khu phố Trị Yên, thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. ## Giải thích tên gọi Nguyễn Thái Bình là con trai lớn
**Ba Tri** là một huyện ven biển cũ thuộc tỉnh Bến Tre cũ, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Ba Tri nằm ở phía cuối cù lao Bảo, có vị trí địa lý: *Phía đông
**Di tích khảo cổ học Rạch Núi** là một gò đất nằm tại ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. ## Đặc điểm Di tích khảo cổ học Rạch
**Rạch Bà Lào** (tên khác: **Rạch Xã Tờn**) là một con rạch đổ ra sông Cần Giuộc. Rạch có chiều dài 12 km, chảy qua hai huyện Bình Chánh, Nhà Bè thuộc Thành phố Hồ Chí
Thành phầnTrong một viên nang cứng có chứa:Cao lá atiso 200mgCao cà gai leo 200mgCao bồ công anh 50mgArginine 5mgChiết xuất cây kế sữa (Có chứa Silymarin) 5mg (Silybum marianum (L.) Gaertn extract)Phụ liệu: Gelatin,
1. Thành phầnTrong một viên nang cứng có chứa:Cao lá atiso 200mgCao cà gai leo 200mgCao bồ công anh 50mgArginine 5mgChiết xuất cây kế sữa (Có chứa Silymarin) 5mg (Silybum marianum (L.) Gaertn extract)Phụ liệu:
**Bến Lức** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Bến Lức nằm ở phía đông bắc của tỉnh Long An, là cửa ngõ phía bắc của miền Tây Nam
**Trần Văn Cần** (sinh năm 1962) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Long An khóa IX, nhiệm kỳ 2016–2021. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông
**Đồng bằng sông Cửu Long** đã có lịch sử khai phá từ thế kỷ 17, bắt đầu dưới quyền chúa Nguyễn, các chúa đã cho tổ chức các đơn vị hành chính ban đầu trên
phải|nhỏ|Một góc trung tâm [[Thành phố Hồ Chí Minh, đô thị lớn nhất Việt Nam]] **Đô thị Việt Nam** là những đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được các cơ quan
**Tân An** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý nhỏ|trái|Trung tâm thành phố Tân An Thành phố Tân An nằm về phía
**Đặng Văn Lẫm** (sinh ngày 18 tháng 10 năm 1968) là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện là Phó Tư lệnh Quân
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
**Sông Soài Rạp** hay **Xoài Rạp** là một phân lưu của hệ thống sông Sài Gòn - sông Đồng Nai . ## Dòng chảy Sông được bắt đầu từ đoạn xã Phú Xuân, huyện Nhà
**Bến Thủ** là một huyện cũ thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Bến Thủ có vị trí địa lý: *Phía đông giáp Thành phố Hồ Chí Minh và huyện Cần Giuộc
**Quốc lộ 50** là tuyến đường nối liền từ Thành phố Hồ Chí Minh qua tỉnh Long An đến tỉnh Tiền Giang. Tuyến đường bắt đầu từ Cầu Nhị Thiên Đường, thuộc địa phận Quận
**Thanh Khê** là một quận nằm ở trung tâm thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. ## Địa lý Quận Thanh Khê nằm ở khu vực trung tâm thành phố Đà Nẵng, có vị trí địa
**Long An** là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. ## Thời cổ đại Long An là một trong những địa bàn của Nam Bộ từ lâu đã có cư
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, miền Nam Việt Nam. Tây Ninh nằm ở biên giới miền Tây Nam của Việt Nam, có chung đường biên giới quốc tế trên bộ
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
phải|nhỏ|Bản đồ hạt Chợ Lớn năm 1882 **Chợ Lớn** là một tỉnh cũ ở Nam Bộ Việt Nam. Tỉnh Chợ Lớn được chính quyền thực dân Pháp thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm
**Quốc lộ 50B** (tên cũ là _Đường động lực TP. Hồ Chí Minh – Long An – Tiền Giang_ hay _Đường tỉnh 827E_) có điểm đầu từ cuối đường Phạm Hùng qua cầu Kênh Cây
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh Gia Định thời Việt Nam Cộng hòa **Quảng Xuyên** là một quận cũ thuộc tỉnh Gia Định của Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Địa bàn quận Quảng Xuyên hiện nay
**Nguyễn Văn Chính** (1 tháng 3 năm 1924 – 29 tháng 10 năm 2016), tên thật là **Cao Văn Chánh**, tên thường gọi là **Chín Cần**, là một nhà chính trị Việt Nam. Ông là
**Ngã ba mũi tàu ** là địa điểm tập trung cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) của nhân dân huyện Cần Giuộc. Di tích toạ lạc tại xã Trường
**Long An** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, nằm ở cửa ngõ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long liền kề với Thành phố Hồ Chí Minh. Năm
**Trương Văn Bang** (1911 - 1981) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương như Bí thư Tỉnh ủy
**Vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh** là một trong hai vùng đô thị của Việt Nam, nằm trong quy hoạch được Bộ Xây dựng Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ ngày 23
**Nguyễn Ngọc Tương** (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh
**Gia Định** (chữ Hán: 嘉定) là một địa danh cũ ở miền Nam Việt Nam. ## Lịch sử (sơ lược) phải|[[Chân Lạp-Phù Nam, vào năm 600.]] Đất **Gia Định xưa** thuộc nước Phù Nam (tồn
**Tân An** là tỉnh cũ ở miền Đông Nam Kỳ, Việt Nam. Tỉnh Tân An được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1900, tồn tại vào thời Pháp thuộc và bị chính quyền
nhỏ|Khu công nghiệp Long Hậu (Cần Giuộc, Long An) **Khu công nghiệp Long Hậu** (tên tiếng Anh: _Long Hau Industrial Park_) là một khu công nghiệp tại tỉnh Long An được thành lập theo [http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_page=4&mode=detail&document_id=97516
**Trương Phi Hùng** (sinh ngày 16 tháng 6 năm 1977) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại
**Nguyễn Tuấn Anh** (sinh ngày 11 tháng 8 năm 1975) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Hậu Giang, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc
**Tuyến 5** là một tuyến metro (đường sắt đô thị) thuộc hệ thống Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại dự án đã hoàn tất báo cáo nghiên cứu tiền khả
**Chùa Tôn Thạnh** là một ngôi chùa khá nổi tiếng trong lịch sử và văn học thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. ## Xếp hạng Chùa được Bộ Văn
**Phong trào hội kín Nam Kỳ** là một phong trào tự phát của giới dân nghèo, nhằm chống lại ách áp bức của thực dân Pháp vào những năm đầu thế thế kỷ 20 tại
**Nguyễn Thái Bình** ( - ) là một sinh viên phản chiến Việt Nam bị bắn chết tại sân bay Tân Sơn Nhất với cáo buộc đe dọa cho nổ máy bay nhằm chuyển hướng
Chân dung Nguyễn An Khương **Nguyễn An Khương** hay **Nguyễn An Khang** (1860-1931); là dịch giả và là chí sĩ ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Ông là cha của nhà
**Trương Hòa Bình** (bí danh: **Sáu Đạt**, sinh ngày 13 tháng 4 năm 1955) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ
**Châu Thành** là một từ được sử dụng khá nhiều làm địa danh ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử, danh xưng _là một tên chung để gọi “lị sở” hay là “thủ phủ”
**Biển xe cơ giới** (hay còn gọi là **biển số xe**) là biển được sử dụng để hiển thị _dấu đăng ký_ của phương tiện tại Việt Nam. Đây là biển bắt buộc đối với