✨Butterfly (album của Mariah Carey)

Butterfly (album của Mariah Carey)

Butterfly là album phòng thu thứ sáu của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 16 tháng 9 năm 1997 bởi Columbia Records. Album là sự kết hợp giữa phong cách âm nhạc hip hop và urban adult contemporary, bên cạnh một số giai điệu nhẹ nhàng và hiện đại hơn. Trong suốt dự án, Carey hợp tác với Walter Afanasieff, người tham gia sáng tác và sản xuất hầu hết những bài hát từ các album phòng thu trước của cô. Ngoài ra, nữ ca sĩ cũng làm việc với nhiều nhà sản xuất và rapper hip-hop nổi tiếng như Sean "Puffy" Combs, Q-Tip, Missy Elliott và Trackmasters. Butterfly đánh dấu sự chuyển hướng rõ rệt trong âm nhạc của Carey, tiếp tục quá trình chuyển đổi đã bắt đầu từ album trước, Daydream (1995), giúp cô tấn công vào thị trường nhạc R&B và hip hop, đồng thời rời xa nền nhạc pop tồn tại trong những album đầu tiên. Butterfly cũng phản ánh sự trưởng thành và phát triển trong sáng tạo của Carey xuyên suốt quá trình sáng tác và thu âm.

Sau khi phát hành, đĩa nhạc nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đón nhận sự chuyển đổi trong âm nhạc của Carey, cũng nhiều giành nhiều lời khen ngợi cho phong cách sản xuất trưởng thành và định hướng âm nhạc của nữ ca sĩ. Mặc dù được phát hành trong thời điểm xung đột giữa Carey xung đột với Sony Music, album vẫn gặt hái nhiều thành công lớn về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng album ở nhiều quốc gia, bao gồm Úc, Canada, Hy Lạp, Nhật Bản và Hà Lan, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những thị trường khác, bao gồm vươn đến top 5 ở Áo, Ý, New Zealand, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, Butterfly ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 235.500 bản, trở thành album có doanh số tuần đầu cao nhất trong sự nghiệp của cô lúc bấy giờ và là đĩa nhạc quán quân thứ tư của nữ ca sĩ tại đây. Album sau đó được chứng nhận năm đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).

Năm đĩa đơn đã được phát hành từ album, bao gồm hai đĩa đơn thương mại và ba đĩa đơn phát hành giới hạn. "Honey", đĩa đơn chủ đạo của album, đứng đầu bảng xếp hạng ở Canada và Hoa Kỳ, đồng thời lọt vào top 5 ở New Zealand, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh. Đĩa đơn thứ năm và cũng là đĩa đơn cuối cùng của album, "My All" vuơn đến top 10 ở nhiều quốc gia khắp châu Âu và giúp Carey nâng cao kỷ lục cho nghệ sĩ nữ có nhiều đĩa đơn số một nhất tại Hoa Kỳ. Để quảng bá album, nữ ca sĩ bắt tay thực hiện chuyến lưu diễn Butterfly World Tour với 11 đêm diễn và đi qua Úc, Nhật Bản và Đài Loan, bên cạnh một đêm diễn ở Hoa Kỳ. Butterfly cũng nhận được ba đề cử giải Grammy tại Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 40. Năm 2009, Carey viết ở phần ghi chú trong album phòng thu thứ mười hai của cô, Memoirs of an Imperfect Angel rằng cô nhìn nhận đĩa nhạc như một tuyệt tác của chính mình và là bước ngoặt lớn trong sự nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân của nữ ca sĩ.

Bối cảnh và phát hành

Carey bắt đầu thực hiện Butterfly vào tháng 1 năm 1997. Trong quá trình phát triển album vào giữa năm 1997, Carey ly thân với chồng, giám đốc điều hành Tommy Mottola, người đóng vai trò định hướng sự nghiệp của cô từ năm 1990. Việc Carey ngày càng kiểm soát sự nghiệp của chính mình đã dẫn đến những đồn đoán trên báo chí về tương lai của cặp đôi và sau đó họ quyết định ly hôn. Trong suốt quá trình phát triển album, khác với những album trước đây, Carey hợp tác với nhiều rapper và nhà sản xuất hip hop, như Sean "Puffy" Combs, Q-Tip, Missy Elliott và Jean Claude Oliver và Samuel Barnes của Trackmasters.

Áp lực từ vụ ly hôn và sự chú ý liên tục của báo chí bắt đầu đè nặng lên Carey. Sự khác biệt sáng tạo ngày một gia tăng với nhà sản xuất Walter Afanasieff dẫn đến việc cả hai kết thúc mối quan hệ làm việc, mặc dù Afanasieff đã hợp tác trong hầu hết những đĩa nhạc trước đó của Carey.

Butterfly được phát hành lần đầu tiên vào ngày 10 tháng 9 năm 1997 tại Nhật Bản và Đài Loan, sau đó ra mắt tại Vương quốc Anh vào ngày 11 tháng 9, và phần còn lại của Châu Âu vào ngày hôm sau. Columbia phát hành đĩa nhạc vào ngày 16 tháng 9 tại Hoa Kỳ. Album được phát hành dưới dạng LP, cassette, compact disc và/hoặc MiniDisc tùy thuộc vào mỗi quốc gia.

Sáng tác

Butterfly được mô tả như một album nhạc R&B, pop và hip hop Giai điệu của bản nhạc được điều khiển bởi lập trình trống của drum và các nốt đàn phím của Stevie J. Phần sản xuất của Combs mang lại cho bài hát một hiệu ứng "nhẹ nhàng và thoáng đãng", đặc điểm làm tăng sự khác lạ so với âm hưởng đương đại vốn có của Carey. Carey đảm nhận phần lời trong khi Afanasieff, người sáng tác phần nhạc cùng Dan Shea, xử lý phần nhạc cụ và thêm vào một số nét R&B cá nhân. Một bản ballad khác Carey viết cùng Afanasieff là "My All", được sáng tác hoàn toàn tương phản với những chất liệu hip hop của album. Tác giả Chris Nickson viết rằng "'Breakdown' cho thấy Mariah đang dấn thân mạnh mẽ vào lãnh thổ mới và biến nó thành của riêng mình." Trong lúc hình dung ra ý tưởng cho "Butterfly", Carey dự định biến bài hát thành một bản house, nhưng sau khi viết xong, nữ ca sĩ thay đổi bản nhạc thành một bản ballad. Carey mong muốn phối khí "Fly Away (Butterfly Reprise)" trên cả nền nhạc house, bên cạnh bản ballad sẽ trở thành "Butterfly".

Quảng bá

Để quảng bá cho Butterfly, Carey đã xuất hiện và trình diễn ở nhiều sự kiện. Carey cũng trình diễn tại những lễ trao giải, hát "My All" tại Giải thưởng Giải trí Blockbuster năm 1998 và "Honey" tại Giải thưởng Âm nhạc Thế giới năm 1998. Như một phần của đêm diễn tại Sân vận động Aloha có sức chứa 50,000 người ở Hawaii, Carey ghi hình một video hòa nhạc, Around the World. Đây là một DVD tổng hợp những màn trình diễn của Carey ở Nhật Bản, Úc và Hawaii.

Đĩa đơn

Năm đĩa đơn đã được phát hành từ Butterfly; một số chỉ phát hành trên sóng phát thanh, trong khi số khác chỉ được phát hành ở một số vùng lãnh thổ nhất định. "Honey" được ra mắt dưới dạng đĩa đơn đầu tiên của album trên đài phát thanh mainstream và rhythmic vào ngày 29 tháng 7 năm 1997. Bài hát trở thành đĩa đơn quán quân thứ 12 của Carey trên Billboard Hot 100 và đứng đầu bảng xếp hạng ở Canada, đồng thời lọt vào top 5 ở New Zealand, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh. Bản nhạc sau đó được chứng nhận đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), công nhận một triệu đơn vị được tiêu thụ tại Hoa Kỳ và nhận được chứng nhận Vàng tại Úc. "Honey" cũng được giới phê bình đón nhận, khen ngợi âm thanh hấp dẫn và sự kết hợp thông minh giữa pop và R&B. Tại Hoa Kỳ, bài hát kết thúc ở vị trí thứ 17 trên bảng xếp hạng cuối năm, là đĩa đơn có thứ hạng cao nhất của Carey trong năm 1998.

#Butterfly25

Tháng 9 năm 2022, nhân kỷ niệm 25 năm phát hành album, Carey thông báo phát hành lại phiên bản cao cấp "với 8 bản nhạc mới kèm theo từ những buổi thu âm Butterfly". Thông báo cũng giới thiệu những mặt hàng mới, đĩa than mới, bản làm lại video ca nhạc dưới phiên bản 4K và phim tài liệu về quá trình thực hiện video "Honey". Berger nhận thấy có mối liên hệ giữa phần lớn lời bài hát của Carey với việc cô chia tay Mottola. Bên cạnh việc bình luận về sự khác biệt so với những tác phẩm trước của Carey, anh còn lưu ý những bài hát trong album được Carey ám chỉ đến cuộc hôn nhân thất bại với Mottola, chẳng hạn như "Butterfly" và "Close My Eyes" đều được thực hiện sau khi nữ ca sĩ ly hôn với Mottola với lời bài hát nói về sự buông bỏ trong tình yêu và những khó khăn trong cuộc sống. Ngoài ra, anh còn viết, "Vì Carey tự viết lời bài hát cho cô ấy nên người hâm mộ có thể mong đợi một chút về câu chuyện bất hòa trong hôn nhân hoặc niềm tự hào về quyền tự chủ mới được tìm thấy của cô ấy." David Browne từ Entertainment Weekly cho Butterfly điểm B− trong bài đánh giá của anh. Browne viết: "Trong Breakdown, [Carey] chứng tỏ rằng cô ấy có thể phù hợp với cách diễn đạt staccato, mang hơi hướng reggae với hai nghệ sĩ khách mời, là hai thành viên của Bone Thugs-N-Harmony." Erlewine cho album điểm 4/5 sao; nhưng vào năm 2021, AllMusic đã nâng xếp hạng lên nửa sao. Juzwiak đặc biệt khen ngợi "Breakdown", bài hát được anh gọi là một trong những tác phẩm hay nhất của album. Về giọng hát của Carey, ông viết, "Quãng âm tương đối cao và mỏng mà cô hát khi không ngân rung (và điều đó thường xảy ra) có thể là thay đổi quan trọng nhất của Butterfly, vì điều đó đánh dấu lần đầu tiên giọng ca Mariah có vẻ thực sự nhất quán. Cô ấy thể hiện hoàn toàn có hồn." chỉ ra "một bản thu tệ hại mà các chi tiết hiếm khi phải suy nghĩ thêm".

Thành tựu

Hiệu suất thương mại

Butterfly ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 vào tuần ngày 4 tháng 10 năm 1997 với 235,500 bản, mức tiêu thụ tuần đầu cao nhất trong sự nghiệp của cô vào thời điểm đó. Album duy trì ở ngôi vị quán quân trong một tuần và trụ vững ở top 20 trong 21 tuần; tổng cộng đĩa nhạc trải qua 55 tuần trên bảng xếp hạng, bao gồm một lần xuất hiện lại. Tại Hoa Kỳ, album được chứng nhận năm đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), công nhận lượng tiêu thụ đạt năm triệu bản. Nielsen SoundScan ước tính doanh số album là 3,807,000 bản tại Mỹ. Tại Canada, album ra mắt ở vị trí số một và được chứng nhận hai đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Canada (CRIA), đánh dấu lượng tiêu thụ cán mốc 200,000 bản. Butterfly ra mắt ở vị trí số một tại Úc và được chứng nhận hai đĩa Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA), với lượng đĩa xuất xưởng là 140,000 đơn vị.

Tại Châu Âu, Butterfly lọt vào top 5 ở một số nước Châu Âu, và được chứng nhận đĩa Bạch kim bởi Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI), ghi nhận một triệu bản được tiêu thụ trên khắp Châu Âu. Tại Vương quốc Anh, Butterfly ra mắt ở vị trí thứ hai với doanh số 29,000 trong ba ngày. Alan Jones của Music Week mô tả đây là con số thấp bất ngờ sau khi Daydream ra mắt ở vị trí số một cũng với số ngày tiêu thụ tương tự. Album sau đó được chứng nhận Bạch kim bởi Ngành Công nghiệp ghi âm Anh (BPI) với doanh số 300,000 bản. trước khi được chứng nhận giải Triệu bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ), đánh dấu doanh số bán ra đạt một triệu bản. Tại Hồng Kông, Butterfly nằm trong số những album nước ngoài bán chạy nhất năm 1997, đồng thời nhận được chứng nhận Bạch kim của IFPI. Trên toàn cầu, album đã bán được hơn 10 triệu bản.]]

Kể từ khi phát hành, Butterfly thường xuyên được ca ngợi là một tác phẩm R&B kinh điển. Trong một bài đánh giá hồi tưởng cho The Washington Post, Bethonie Butler tập trung vào tác động của album, nói rằng đĩa nhạc "đã thay đổi bộ mặt của nhạc pop" bằng cách mở đường "cho các ngôi sao nhạc pop khác...hát cùng với những nghệ sĩ rap cùng thời với họ". Trong bài viết trên Jezebel, Rich Juzwiak tập trung vào ảnh hưởng của phong cách thanh nhạc của Carey trong "Breakdown", nhận xét rằng "trong thời đại ngày nay, khi có quá nhiều thể loại được pha trộn đến mức đôi khi không thể coi một nghệ sĩ chỉ là "ca sĩ" hay "rapper," sẽ thật ngu ngốc nếu đánh giá thấp tầm quan trọng của bài hát".

Đĩa đơn chủ đạo của album, "Honey", gây chú ý vì giúp Carey tiến xa hơn đến hip hop và R&B so với trước đây. Video ca nhạc của bài hát còn gây chú ý hơn khi Carey, lần đầu tiên trong sự nghiệp, ăn mặc khiêu khích, mang đến cho người xem "hương vị của Mariah tự do hơn." Sal Ciquemani từ Slant, có đánh giá tích cực về video, khen ngợi việc Carey kết hợp một bài hát hấp dẫn với một "câu chuyện tinh tế về cuộc gặp gỡ nóng bỏng trên sân thượng." Butterfly chiến thắng một Giải Đĩa vàng Nhật Bản ở hạng mục "Album nhạc Pop quốc tế của năm". Với Butterfly, Carey giành được một giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho Nữ nghệ sĩ Soul/R&B được yêu thích nhất năm 1998. Ngoài ra, album còn giành được Giải BMI Pop cho Nhạc sĩ của năm và các Giải Nhạc sĩ cho "Honey", "Butterfly" và "My All".

Album được phát hành với hai bìa khác nhau và vào năm 2007, một trong số đó được liệt kê trong danh sách Những Bìa album gợi cảm nhất của Maxim.

Danh sách bài hát

Ghi chú

  • nghĩa là đồng sản xuất
  • nghĩa là sản xuất bổ sung
  • "Honey" bao gồm đoạn nhạc mẫu "The Body Rock" (1980) của The Treacherous Three và "Hey DJ" (1984) của The World's Famous Supreme Team
  • "The Roof" bao gồm đoạn nhạc mẫu "Shook Ones (Part II)" (1994) của Mobb Deep và "Rock Box" (1984) của Run-DMC
  • "Breakdown" có biến tấu một đoạn từ "Tha Crossroads" (1996) của Bone Thugs-n-Harmony
  • "Fly Away (Butterfly Reprise)" có biến tấu một đoạn từ "Someone Saved My Life Tonight" (1975) của Elton John
  • "Honey" (So So Def Remix) bao gồm đoạn nhạc mẫu "It's Great to Be Here" (1971) của The Jackson 5 và biến tấu một đoạn từ "Hey DJ" (1984) The World's Famous Supreme Team.

Thành phần thực hiện

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Butterfly.

  • Mariah Carey – hát chính, hát nền
  • Walter Afanasieff – đàn phím, synthesizers và lập trình
  • Dan Shea – đàn phím bổ sung, lập trình trống và giai điệu, thiết kế âm thanh, và lập trình máy vi tính
  • Stevie J – đàn phím, lập trình đàn phím và lập trình trống
  • Cory Rooney – lập trình đàn phím
  • Q-Tip – lập trình trống
  • Poke and Tone – lập trình trống
  • Peter "Ski" Schwartz – đàn phím
  • Nathaniel Townsley – đàn phím
  • Artie Reynolds – guitar bass
  • Gary Montoute – Hammond B-3
  • Donald Parker – piano và đàn phím
  • Michael Cirro – guitar
  • Michael Phillips – EWI
  • Mase – giọng hát bổ sung
  • The Lox – giọng hát bổ sung
  • Krayzie Bone – giọng chính và giọng nền
  • Wish Bone – giọng chính và giọng nền
  • Dru Hill – giọng hát
  • Melonie Daniels – giọng nền
  • Mary Ann Tatum – giọng nền
  • Kelly Price – giọng nền
  • Trey Lorenz – giọng nền
  • Clarence – giọng nền

Sản xuất

  • Mariah Carey – người dàn dựng
  • Walter Afanasieff – người dàn dựng
  • Cory Rooney – người dàn dựng
  • Dru Hill – người dàn dựng
  • Ron Grant – người dàn dựng bổ sung
  • David Morales – sản xuất, dàn dựng và phối khí bổ sung
  • Satoshi Tomiie – sản xuất, dàn dựng và phối khí bổ sung
  • Dana Jon Chappelle – kỹ sư
  • Mike Scott – kỹ sư , hỗ trợ kỹ sư , phối khí
  • Glen Marchese – kỹ sư
  • Rich Travali – kỹ sư
  • David Gleeson – kỹ sư
  • Bill Esses – kỹ sư
  • Franklin Grant – kỹ sư
  • Doug Wilson – kỹ sư
  • David "EQ3" Sussman – kỹ sư
  • Ian Dalsemer – hỗ trợ kỹ sư
  • Ken Ross – hỗ trợ kỹ sư
  • Oliver "Wiz" Bone – hỗ trợ kỹ sư
  • Steve Jones – hỗ trợ kỹ sư
  • Ann Mincieli – hỗ trợ kỹ sư
  • Greg Thompson – hỗ trợ kỹ sư
  • Tony Maserati – phối khí
  • Mick Guzauski – phối khí
  • Herb Powers Jr. – master
  • Bob Ludwig – master

Xếp hạng

Xếp hạng tuần

Xếp hạng cuối năm

Chứng nhận

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Butterfly_** là album phòng thu thứ sáu của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 16 tháng 9 năm 1997 bởi Columbia Records. Album là sự kết hợp giữa
**_Daydream_** là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 3 tháng 10 năm 1995 bởi Columbia Records. Được phát hành sau thành công toàn cầu
**_Caution_** là album phòng thu thứ 15 của ca sĩ người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 16 tháng 11 năm 2018 bởi Epic Records. Đây là album phòng thu đầu tiên của cô sau
**_Rainbow_** là album phòng thu thứ bảy của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 2 tháng 11 năm 1999 bởi Columbia Records. Đĩa nhạc là sự tiếp nối
**_The Remixes_** là album phối lại đầu tiên của ca sĩ người Mỹ Mariah Carey, phát hành tại Mỹ vào ngày 14 tháng 10 năm 2003 bởi Columbia Records. Album chủ yếu là bộ sưu
Ca sĩ và người viết bài hát người Mỹ Mariah Carey đã phát hành 14 album phòng thu, 1 album nhạc phim, 1 album trực tiếp, 6 album tổng hợp, 1 đĩa mở rộng và
"**Butterfly**" là bài hát được sáng tác, sản xuất bởi nữ ca sĩ người Mỹ Mariah Carey và Walter Afanasieff cho album thứ 7 của cô _Butterfly_ (1997). Đây là bản ballad kết hợp với
"**Fantasy**" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Mariah Carey, được phát hành ngày 12 tháng 9 năm 1995 bởi Columbia Records dưới dạng đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu
"**Honey**" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Mariah Carey nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, _Butterfly_. Nó được phát hành làm đĩa đơn đầu tiên trích từ album vào
**Mariah Carey** (; sinh ngày 27 tháng 3 năm 1969) là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, nhà sản xuất thu âm và diễn viên người Mỹ. Được biết đến với quãng giọng
**_The Emancipation of Mimi_** (tạm dịch _Sự giải thoát của Mimi_) là album phòng thu thứ mười của ca sĩ người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 12 tháng 4 năm 2005 bởi Island Records.
**_Charmbracelet_** là album phòng thu thứ chín của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 3 tháng 12 năm 2002 bởi Island Records và MonarC Entertainment. Sau thất bại
"**My All**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Mariah Carey nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, _Butterfly_ (1997). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ
_Tạp chí Billboard_ bắt đầu thực hiện danh sách số lượng bán album từ năm 1956. thumb|alt=|Album _[[Thriller (album)|Thriller_ của Michael Jackson là album bán chạy nhất trong 2 năm liên tiếp (1983-1984).]] ## Thập
**Thái Y Lâm** (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1980) là nữ ca sĩ, vũ công nổi tiếng người Đài Loan. Thái Y Lâm từng đạt giải thưởng Nữ ca sĩ hát nhạc Hoa xuất
**Walter Afanasieff** (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1958), có biệt danh trước đây là **Baby Love** trong thập niên 1980, là một nhạc sĩ, người viết bài hát, nhà sản xuất thu âm và
**WJSN** hay **Cosmic Girls** () là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc do công ty Starship Entertainment và Yuehua Entertainment hợp tác thành lập và quản lý ra mắt vào năm 2016. Đội hình ban
**Harel Skaat** (, sinh ngày 8 tháng 8 năm 1981) đôi khi được biết đến với biệt danh **Harel** là một ca sĩ và nhạc sĩ người Israel. Anh đã đại diện cho Israel trong
**Kim So-hyang** (Hangul: 김소향; Hanja: 金昭享; Hán-Việt: Kim Chiêu Hưởng; sinh ngày 5 tháng 4 năm 1978 tại Jeollanam-do, Gwangju, Hàn Quốc), là một nữ ca sĩ người Hàn Quốc. Với quãng giọng rộng và
**Official New Zealand Music Chart** là bảng xếp hạng top 40 đĩa đơn và abum hàng tuần ở New Zealand, phát hành hằng tuần bởi Recorded Music NZ (trước đây là Hiệp hội Công nghiệp
là một sân vận động trong nhà ở Bunkyō, Tokyo, Nhật Bản. Sân được xây dựng như một sân vận động bóng chày để thay thế cho Sân vận động Korakuen. Công việc xây dựng