✨Daydream (album của Mariah Carey)
Daydream là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 3 tháng 10 năm 1995 bởi Columbia Records. Được phát hành sau thành công toàn cầu của album phòng thu trước Music Box (1993) và album dịp lễ Merry Christmas (1994), Daydream thể hiện sự đổi mới trong âm nhạc của Carey với việc hướng đến những giai điệu hip hop và urban. Trong suốt dự án, Carey tiếp tục hợp tác với Walter Afanasieff, người đã tham gia đồng viết lời và sản xuất ở hầu hết những bài hát trong hai album trước. Với album, Carey bắt đầu chủ động hơn trong việc kiểm soát định hướng âm nhạc cũng như quá trình sáng tác nó. Ngoài ra, nữ ca sĩ cũng tiết lộ rằng cô nhìn nhận Daydream như là bước khởi đầu cho sự chuyển giao trong âm nhạc và giọng hát của cô, một sự thay đổi sẽ được thể hiện rõ ràng hơn trong album tiếp theo Butterfly (1997). Trong quá trình sản xuất nó, Carey vấp phải những bất đồng về mặt sáng tạo với giám đốc hãng đĩa và cũng là chồng của cô lúc bấy giờ Tommy Mottola.
Trong Daydream, Carey hợp tác lần đầu tiên với Jermaine Dupri, cũng như đồng viết lời và sản xuất một bản nhạc với Kenneth "Babyface" Edmonds, người cô hợp tác trước đó trong Music Box. Đây cũng là lần đầu tiên nữ ca sĩ làm việc với Boyz II Men, một nhóm nhạc R&B gồm bốn giọng ca nam. Họ đã cùng nhau xây dựng ý tưởng và viết nên "One Sweet Day", một bài hát Carey đồng sản xuất với Afanasieff. Với sự hỗ trợ của ông và một số nhà sản xuất đương đại khác, nữ ca sĩ từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi vào thị trường nhạc R&B một cách tinh tế. Daydream nhận được sáu đề cử giải Grammy tại lễ trao giải thường niên lần thứ 38 nơi Carey cũng tham gia trình diễn. Sau những thành công to lớn về mặt chuyên môn lẫn thương mại của nó, nhiều nhà phê bình dự đoán rằng Carey sẽ là một trong những nghệ sĩ thắng lớn trong đêm. Tuy nhiên, cô không chiến thắng bất kỳ đề cử nào, dẫn đến một đề tài tranh luận công khai và gây nên tranh cãi tại thời điểm đó.
Sáu đĩa đơn đã được phát hành từ Daydream. Đĩa đơn chủ đạo, "Fantasy", trở thành đĩa đơn đầu tiên của một nghệ sĩ nữ ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và trụ vững trong tám tuần liên tiếp, và là đĩa đơn bán chạy thứ hai của năm 1995 ở Hoa Kỳ. Nó cũng đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Canada, New Zealand và vươn đến top 5 ở Phần Lan, Pháp và Vương quốc Anh. "One Sweet Day" được phát hành làm đĩa đơn thứ hai và đạt vị trí số một trên Billboard Hot 100 trong mười sáu tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn trụ vững ở ngôi vị quán quân lâu nhất trong lịch sử, một kỷ lục sẽ tiếp tục tồn tại trong 23 năm. Với việc đĩa đơn thứ tư "Always Be My Baby" đứng đầu Hot 100 trong hai tuần, tất cả những đĩa đơn từ album đã thống trị bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ trong sáu tháng. Ba đĩa đơn còn lại "Open Arms", "Forever" và "Underneath the Stars" đều không được phát hành dưới hình thức đĩa đơn thương mại hoặc chỉ giới hạn ở một số khu vực.
Sau khi phát hành, Daydream trở thành album nhận được nhiều phản hồi tốt nhất của Carey từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự trưởng thành trong khâu sáng tác và định hướng âm nhạc mới của cô. Nó cũng gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều thị trường lớn như Úc, Nhật Bản và Vương quốc Anh, và lọt vào top 5 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện. Tại Hoa Kỳ, album được chứng nhận đĩa Kim cương từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA), công nhận lượng tiêu thụ đạt mười triệu bản tại đây, và là đĩa hát thứ hai của Carey đạt được thành tích này. Ngoài ra, nó cũng là album bán chạy thứ tư ở Nhật Bản bởi một nghệ sĩ quốc tế, với 2.2 triệu bản được bán ra. Để quảng bá cho Daydream, Carey bắt tay thực hiện chuyến lưu diễn ngắn hạn nhưng thành công Daydream World Tour, ghé thăm Nhật Bản và một vài quốc gia châu Âu. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 30 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.
Bối cảnh
Bên cạnh việc là đĩa hát bán chạy thứ hai của Carey trên toàn thế giới, Daydream còn đánh dấu bước ngoặt cho một album cá nhân và có nhiều ảnh hưởng nhất của cô vào thời điểm đó. Trong quá trình thu âm nó, Carey đã phát triển khả năng như một nghệ sĩ thực thụ, cũng như một nhà viết lời. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Carey có thể tạo ra thứ âm nhạc mà cô thực sự cảm thấy kết nối, R&B và hip hop.
Trong khi hướng đi âm nhạc mới của Carey gây ra căng thẳng giữa cô và Columbia, nó cũng khởi nguồn cho những rạn nứt nghiêm trọng xảy ra trong mối quan hệ của nữ ca sĩ với chồng của cô vào thời điểm đó, Tommy Mottola. Khi sự nghiệp và công việc của Carey tiếp tục phản ánh quan điểm của cô về việc nó sẽ trở nên như thế nào, cuộc hôn nhân giữa cô với Mottola tiếp tục "xấu đi". Nữ ca sĩ luôn là người hâm mộ lớn của bản nhạc, và cô trình bày cho Dave Hall về ý tưởng sử dụng nhạc mẫu từ đoạn hook của nó. Carey nhanh chóng soạn thảo nên phần điệp khúc và ý tưởng, và sau khi gặp Boyz II Men, nhóm nhận ra rằng chính mình cũng có suy nghĩ tương tự trong quá trình phát triển. Ngay sau đó, Carey, Dupri và Manuel Seal bắt đầu sáng tác một bài hát cho album; Carey và Dupri sau đó trở thành bạn thân và cộng tác thường xuyên ở những dự án tiếp theo của cô trong tương lai. Khi Seal chơi piano, Carey bắt đầu ngân nga và chơi một số nốt nhất định, cho đến khi cô nghĩ ra phần điệp khúc cho "Always Be My Baby". "Underneath the Stars" là bài hát đầu tiên được thu âm cho Daydream. Đây là một bản nhạc sở hữu "khuynh hướng nhạc soul thập niên 70" cũng như một số âm thanh sột soạt, để mang lại cho bài hát âm thanh đích thực của những năm 1970. Quá trình viết lời và sản xuất nó được đánh giá là "tráng lệ" với mỗi câu hát như được bay lượn ở phần điệp khúc. đây là bài hát cá nhân nhất của Carey vào thời điểm đó, với nội dung đề cập đến những liên tưởng của cô về việc để mình xuất hiện "khỏa thân" và "trần trụi"; nó được viết bởi Carey và Afanasieff.
Quảng bá
thumb|Carey và Boyz II Men trình diễn "One Sweet Day" tại Madison Square Garden Để quảng bá album, Carey tiến hành chuyến lưu diễn thứ hai trong sự nghiệp Daydream World Tour. Ban đầu, nữ ca sĩ không muốn lưu diễn bởi thời gian di chuyển dài và phức tạp, nhưng đồng ý thực hiện sau nhiều yêu cầu từ người hâm mộ. Chuyến lưu diễn đến Nhật Bản và một số quốc gia châu Âu, nhưng không đi qua Hoa Kỳ. Điều này có thể xuất phát từ những đánh giá trái chiều cho chuyến lưu diễn đầu tiên của Carey Music Box Tour ở Bắc Mỹ ba năm trước đó. Những buổi hòa nhạc đều cách nhau nhiều ngày để giọng hát của Carey có thời gian nghỉ ngơi, "Thật vất vả để hát lại tất cả những bài hát của mình, nhưng tôi thực sự rất mong chờ nó." Trước khi bắt đầu lưu diễn vòng quanh thế giới vào năm 1996, Carey thực hiện một đêm diễn cháy vé tại Madison Square Garden vào năm 1995. Nó được quay và phát hành dưới dạng DVD với tựa đề Fantasy: Mariah Carey at Madison Square Garden, trở thành bản phát hành video thứ tư của Carey. Đối với mỗi đêm diễn, Carey thể hiện mười bốn bài hát gốc, bao gồm những bản hit lớn nhất của cô ở thời điểm đó, cũng như nhiều bài hát mới từ Daydream, bao gồm "Fantasy", "One Sweet Day", "Open Arms", "Always Be My Baby", "Forever" và "Underneath the Stars". Nhưng buổi diễn tiếp theo của Daydream World Tour ở Pháp, Đức, Hà Lan và Vương quốc Anh đều cháy vé, đồng thời nhận được những phản hồi nồng nhiệt từ giới phê bình. Sau khi "Fantasy" được phát hành vào tháng 9 trên khắp châu Âu, Carey trình diễn nó trên chương trình bảng xếp hạng nổi tiếng của Anh Top of the Pops, được phát sóng trực tiếp qua vệ tinh trên truyền hình châu Á. "Fantasy" dẫn đầu trong tám tuần liên tiếp, và trở thành đĩa đơn bán chạy thứ hai của năm 1995 ở Hoa Kỳ với 1.5 triệu bản. Trên thị trường quốc tế, bài hát đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Canada và New Zealand, đồng thời lọt vào top 5 ở Bỉ, Phần Lan, Pháp và Vương quốc Anh. Đĩa đơn tiếp theo, "One Sweet Day" cũng đạt được thành công tương tự, một lần nữa đứng đầu bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên và nắm giữ kỷ lục suốt 23 năm cho đĩa đơn quán quân lâu nhất lịch sử Billboard Hot 100 với 16 tuần liên tiếp. Được phát hành làm đĩa đơn thứ ba của Daydream ở một số quốc gia châu Âu, "Open Arms" tiếp nhận thành công ở Vương quốc Anh, Ireland và New Zealand, nơi nó lần lượt xếp hạng 4, 7 và 8. Tuy nhiên, "Open Arms" không đạt được thứ hạng cao ở những quốc gia châu Âu khác, như Bỉ, Pháp và Đức, nơi nó nằm ngoài top 30.
"Always Be My Baby" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ tư, và không thể tiếp nối thành tích tuần đầu của hai đĩa đơn mở đường khi ra mắt ở vị trí thứ hai trên Billboard Hot 100 (một thành tích cô sẽ thiết lập với "Honey" vào năm 1997). "Forever" được chọn làm đĩa đơn thứ năm từ Daydream, mặc dù không đủ điều kiện để lọt vào Hot 100, nhưng vươn đến top 10 trên bảng xếp hạng sóng phát thanh ở Hoa Kỳ. Nhà báo Cheo H. Coker của Los Angeles Times cho biết Daydream sở hữu nguồn tài nguyên có thể khiến các nhà chuyên môn từng phê bình Carey trước đây phải im lặng—đặc biệt là "Fantasy" và "Underneath the Stars"—và đem đến "một điều gì đó cho tất cả mọi người trong khi bằng cách nào đó vẫn đúng với bản chất của cô ấy". Tạp chí People coi đây là album hay nhất của Carey, vốn hưởng lợi từ những bản nhạc "vui nhộn hơn và nhẹ nhàng hơn" với khả năng kiểm soát giọng hát của nữ ca sĩ được cải thiện, "chứng tỏ sự tuyệt vời về mặt nội lực lẫn tính linh hoạt". Theo tác giả Colin Larkin của Encyclopedia of Popular Music, "một số nhà phê bình đặt câu hỏi liệu Daydream có phải là một bài tập có kiểm soát trong việc viết nên một công thức trống rỗng, với ít cảm xúc từ trái tim hay không." Ngoài ra, Complex cũng xếp nó ở vị trí thứ 15 trong danh sách 50 Album R&B xuất sắc nhất thập niên 1990.
Diễn biến thương mại
Daydream ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 224.000 bản được bán ra, giữ vị trí đầu bảng ở tuần tiếp theo với 216.000 bản, và tiếp tục dẫn đầu trong tuần thứ ba liên tiếp với lượng tiêu thụ đạt 170.000 bản. Nó vươn đến đỉnh điểm về mặt doanh thu trong những tuần tiếp theo của kỳ nghỉ lễ, với mức độ bán ra cao nhất trong những tuần cuối cùng của năm với 486.000 và 760.000 bản. Album bán được 760.000 bản trong tuần lễ Giáng sinh năm 1995, doanh số tuần cao nhất từ trước đến nay của một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ.
Tại Canada, Daydream đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng và được chứng nhận bảy đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Canada (CRIA). Album cũng tiếp nhận những thành công vượt trội ở châu Âu, đạt vị trí số một ở Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Pháp, Daydream vuơn đến vị trí thứ hai và được chứng nhận Bạch kim kép bởi Syndicat national de l'édition phonographique (SNEP), với doanh thu ước tính là 800.000 bản. Daydream được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi Liên đoàn Công nghiệp thu âm quốc tế (IFPI), công nhận ba triệu bản được bán ra khắp châu Âu vào năm 1996.
Tại Úc, Daydream được chứng nhận Bạch kim năm lần bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA), với lượng đĩa xuất xưởng đạt 350.000 bản. Album đứng thứ chín trên bảng xếp hạng cuối năm của ARIA trong cả hai năm 1995 và 1996. Tại Nhật Bản, album ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Oricon. Ngoài ra, Daydream còn lọt vào top 5 trong danh sách những album bán chạy nhất tại đây bởi một nghệ sĩ không phải gốc Á, với 2.2 triệu bản được tiêu thụ. Tính đến nay, nó vẫn là một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại, với doanh số hơn 20 triệu bản trên toàn thế giới.
Thành tựu
Bên cạnh những thành công không thể phủ nhận về mặt thương mại, Daydream còn giúp Carey gặt hái nhiều sự ghi nhận từ ngành công nghiệp âm nhạc với số lượng lớn giải thưởng và đề cử tại nhiều lễ trao giải khác nhau. Carey chiến thắng hai hạng mục tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 1996 cho Nữ nghệ sĩ Pop/Rock được yêu thích nhất và Nữ nghệ sĩ Soul/R&B được yêu thích nhất, bên cạnh hai đề cử cho album một năm sau đó với hạng mục Album Pop/Rock được yêu thích nhất và Album Soul/R&B được yêu thích nhất. Trong suốt năm 1995 và 1996, Carey cũng được trao nhiều giải thưởng danh giá tại giải thưởng Âm nhạc Thế giới, bao gồm Nữ nghệ sĩ thu âm bán chạy nhất thế giới, Nữ nghệ sĩ R&B bán chạy nhất thế giới, Nghệ sĩ Pop bán chạy nhất thế giới và Nghệ sĩ thu âm bán chạy nhất thế giới. Khi các đề cử giải Grammy được công bố, nó nhận được đề cử cho sáu hạng mục khác nhau, bao gồm Album của năm và Album giọng pop xuất sắc nhất cho album, Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất cho "Fantasy", Thu âm của năm và Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất cho "One Sweet Day", và Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất cho "Always Be My Baby". Nhiều nhà phê bình bắt đầu nhận định về cách Daydream sẽ "càn quét" lễ trao giải như thế nào trong năm đó.
Thành phần thực hiện
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Daydream, Columbia Records.
- Mariah Carey – giọng hát, viết lời, sản xuất, cải biên, hát nền
- Walter Afanasieff – viết lời, sản xuất, cải biên, lập trình, synthesizer, bass, đàn phím, lập trình trống
- Babyface – đàn phím, giọng nền
- Michael McCary – viết lời, giọng hát
- Nathan Morris – viết lời, giọng hát
- Wanya Morris – viết lời, giọng hát
- Shawn Stockman – viết lời, giọng hát
- Manuel Seal – piano, viết lời
- Tristan Avakian – guitar
- Melonie Daniels – hát nền
- Jermaine Dupri – sản xuất, cải biên, giọng dẫn và phụ
- Mick Guzauski – phối khí
- Dave Hall – sản xuất, cải biên, lập trình
- Jay Healy – kỹ sư âm nhạc, phối khí
- Loris Holland – organ, đàn hammond
- Dann Huff – guitar
- Kurt Lundvall – kỹ sư âm nhạc
- David Morales – bass, cải biên, đàn phím, sản xuất
- Kelly Price – hát nền
- Shanrae Price – hát nền
Sản xuất
- Mike Scott – kỹ sư âm nhạc
- Manuel Seal – sản xuất, giọng dẫn và phụ
- Dan Shea – synthesizer, bass, đàn phím, lập trình, moog synthesizer, lập trình trống, synthesizer bass
- Andy Smith – kỹ sư âm nhạc
- David Sussman – kỹ sư âm nhạc, phối khí
- Phil Tan – kỹ sư âm nhạc
- Steve Thornton – bộ gõ
- Dana Jon Chappelle – kỹ sư âm nhạc
- Terry Burrus – piano
- Satoshi Tomiie – bass, đàn phím, lập trình, synthesizer bass
- Brian Vibberts – kỹ sư âm nhạc
- Gary Cirimelli – lập trình, lập trình kỹ thuật số
- Randy Walker – lập trình
- Acar Key – kỹ sư âm nhạc
- Frank Filipetti – kỹ sư âm nhạc
- Mark Krieg – kỹ sư âm nhạc thứ hai
- Kirk Yano – kỹ sư âm nhạc hỗ trợ
- Mick Guzauski – phối khí
Danh sách bài hát
Chú thích
- nghĩa là đồng sản xuất
Trích dẫn nhạc mẫu
- "Fantasy" và "Daydream Interlude (Fantasy Sweet Dub Mix)" bao gồm đoạn nhạc mẫu của "Genius of Love" bởi Tom Tom Club (1981)
- "Long Ago" bao gồm đoạn nhạc mẫu của "More Bounce to the Ounce" bởi Zapp (1980)