✨Boeing 767
Boeing 767 là loại máy bay chở khách phản lực thân rộng của Mỹ do Boeing Commercial Airplanes chế tạo. Nó là loại máy bay thân rộng hai động cơ đầu tiên của Boeing và cũng là loại máy bay đầu tiên được hãng này trang bị buồng lái màn hình hiển thị dành cho hai phi công. Boeing 767 sử dụng hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt, cánh đuôi truyền thống và thiết kế cánh siêu tới hạn nhằm giảm sức cản không khí. Theo thiết kế, 767 có thể chở từ 181 đến 375 hành khách trên quãng đường bay từ 7.130 km đến 11.825 km, tùy loại. Ngoài ra, nhờ được phát triển vào cùng thời điểm, Boeing 767 và loại máy bay thân hẹp hai động cơ là Boeing 757 có chung nhiều thiết kế và tính năng, cho phép các phi công sử dụng cùng loại giấy phép để điều khiển cả hai.
Boeing 767 có nhiều phiên bản với chiều dài khác nhau. 767-200 bắt đầu hoạt động vào năm 1982, theo sau nó là mẫu 767-300 vào năm 1986 và mẫu 767-400ER vào năm 2000. Các phiên bản tầm bay mở rộng gồm có 767-200ER và 767-300ER được đưa vào hoạt động trong các năm 1984 và 1988 theo thứ tự, còn phiên bản chở hàng là mẫu 767-300F bắt đầu bay vào năm 1995. Boeing cung cấp chương trình chuyển đổi để hỗ trợ chuyển những chiếc 767-200 và 767-300 dân dụng thành phiên bản vận chuyển hàng hóa. Các phiên bản quân sự bao gồm mẫu máy bay giám sát E-767, mẫu KC-767 và KC-46 dùng cho hoạt động tiếp nhiên liệu trên không. Boeing 767 được trang bị hai động cơ phản lực cánh quạt General Electric CF6, Pratt & Whictney JT9D, Pratt & Whitney PW4000 hoặc Rolls-Royce RB211.
Năm 1982, United Airlines trở thành hãng hàng không đầu tiên vận chuyển hành khách bằng chiếc 767. Ban đầu nó được sử dụng trên các hành trình nội địa và xuyên lục địa, và cũng chính trên những chuyến bay này nó thể hiện được sự hiệu quả trong thiết kế của mình. Năm 1985, Boeing 767 trở thành loại máy bay dân dụng hai động cơ đầu tiên được cấp phép thực hiện các chuyến bay quốc tế đường dài mở rộng và từ đó, nó bắt đầu được sử dụng trên các đường bay thẳng trong các chuyến bay liên lục địa có tầm từ trung bình đến xa. Năm 1986, Boeing khởi động nghiên cứu một mẫu 767 có sức chứa lớn hơn, dẫn đến sự ra đời của mẫu máy bay thân rộng hai động cơ cỡ lớn mang tên Boeing 777. Vào những năm 90, 767 là loại máy bay thông dụng nhất trên các chuyến bay xuyên đại dương nối Bắc Mỹ với châu Âu.
Boeing 767 là mẫu máy bay thân rộng hai động cơ đầu tiên có lượng giao hàng đạt mốc 1.000 chiếc. Tính đến tháng 2 năm 2017, Boeing đã nhận được 1.204 đơn đặt hàng từ 74 khách hàng; và hãng đã bàn giao 1.097 chiếc. Hai năm sau, trên cơ sở này, Boeing khởi động nghiên cứu phát triển một loại máy bay thân rộng mới có tên mã là 7X7 nhằm thay thế mẫu 707 và các thế hệ máy bay thân hẹp trước đó. Theo đó, cả Aeritalia cũng như CTDC sẽ nhận được hợp đồng cung ứng bởi họ tham gia từ sớm. Thời điểm này, 7X7 dự kiến được trang bị hai hoặc ba động cơ, có thể bao gồm động cơ nằm trên cánh và đuôi T.
thumb|Chiếc 7X7 xuất hiện tại [[Triển lãm hàng không Quốc tế Farnborough|triển lãm hàng không Farnborough lần đầu vào năm 1982 với tên là 767-200.|alt=Nhìn nghiêng chiếc máy bay hai động cơ hạ cánh xuống đường băng]]
Đến năm 1976, một thiết kế máy bay thân rộng hai động cơ tương tự như máy bay Airbus A300 trở thành kiểu dáng cơ sở cho Boeing 767. Khi các yêu cầu hàng không đối với các máy bay thân rộng vẫn còn chưa rõ ràng, Các cải tiến trong công nghệ hàng không dân dụng, bao gồm động cơ phản lực có hệ số tách dòng cao, hệ thống bay mới, cải tiến về khí động học và vật liệu nhẹ hơn đều được áp dụng cho máy bay 7X7. Phần lớn các tính năng này cũng được áp dụng cho một nghiên cứu song song về một loại máy bay cỡ vừa thân hẹp mới, tên mã là 7N7, sau này trở thành Boeing 757. Tháng 2 năm 1978, nhà sản xuất đặt tên dòng máy bay này là 767, và đưa ra ba biến thể: mẫu 767-100 với thiết kế 190 chỗ ngồi, mẫu 767-200 với 210 chỗ ngồi, và mẫu 767MR/LR ba động cơ với 200 chỗ ngồi dành cho các đường bay quốc tế. Mẫu 767MR/LR sau này được đổi tên thành 777 để dễ phân biệt. Boeing 767 chính thức ra mắt ngày 14 tháng 7 năm 1978, với việc hãng United Airlines đặt 30 chiếc 767-200, theo sau bởi 50 đơn hàng 767-200 từ American Airlines và Delta Air Lines trong cùng năm đó. Trong quá trình phát triển, các kỹ sư thực hiện khoảng 1/3 các bản vẽ thiết kế của mẫu 767 nhờ CAD, Hai dòng máy bay sau này có chung nhiều tính năng thiết kế, như kỹ thuật điện từ hàng không, hệ thống quản lý chuyến bay và khí cụ bay. và có thể thực hiện những chuyến bay hành trình lên đến 7.130 km.
Độ rộng thân chiếc 767 là 5,03 m, lớn hơn chiếc 707 và nhỏ hơn chiếc 747. Tuy nhiên, thân máy bay không đủ rộng để chứa hai thùng hàng hàng không tiêu chuẩn LD3 song song nhau. Vì vậy người ta đã thiết kế riêng cho 767 loại thùng hàng nhỏ hơn gọi là LD2. Việc sử dụng thiết kế cánh đuôi truyền thống cho phép thân sau máy bay được thu gọn với độ dài tối thiểu, Các màn hình màu dùng công nghệ ống tia âm cực và các thiết bị điện tử mới đã thay thế vai trò của cơ phó thứ hai (tiếng Anh: flight engineer) khi cho phép cơ trưởng và cơ phó theo dõi các hệ thống bay một cách trực tiếp. Buồng lái ba phi công sau đó vẫn trở thành một tùy chọn và được áp dụng vào các mẫu sản xuất đầu tiên. Ansett Australia đặt nhiều mẫu 767 loại buồng lái ba người theo yêu cầu của nghiệp đoàn; và đây cũng là hãng hàng không duy nhất khai thác các máy bay 767 loại này. Buồng lái hai phi công của Boeing 767 cũng có mặt trên mẫu 757, nhờ đó các phi công có thể điều khiển cả hai loại máy bay sau một khóa chuyển đổi ngắn hạn, và đó cũng là lý do khuyến khích các hãng hàng không mua cả hai loại máy bay.
Sản xuất và thử nghiệm
Để sản xuất dòng máy bay 767, Boeing thành lập một mạng lưới các nhà thầu phụ gồm các nhà cung ứng trong nước và các đóng góp từ Aeritalia của Ý và CTDC của Nhật Bản. Vào thời điểm đó, dự án 767 đã nhận được 173 đơn đặt hàng từ 17 khách hàng, gồm có Air Canada, All Nippon Airways, Britannia Airways, Transbrasil và Trans World Airlines. Đội bay này chủ yếu được thử nghiệm về hệ thống điện tử, hệ thống bay, khả năng điều khiển và hiệu suất, Sau khi hoàn tất 1.600 giờ bay thử nghiệm, chiếc 767-200 động cơ JT9D được cấp chứng nhận của Cục Hàng không Liên bang Hoa Kỳ (Federal Aviation Administration – FAA) và Cơ quan Hàng không Dân dụng Vương quốc Anh (Civil Aviation Authority) vào tháng 7 năm 1982. Chiếc đầu tiên được giao cho United Airlines vào ngày 19 tháng 8 năm 1982. Ba tháng sau, chiếc 767-200 động cơ CF6 của hãng Delta Air Lines cất cánh. Dòng máy bay có khởi đầu thương mại khá thuận lợi, với rất ít lỗi vận hành xảy ra và độ tin cậy cao hơn những loại máy bay đời trước. Trong năm đầu tiên, tỉ lệ chuyến bay cất cánh mà không bị trì hoãn vì lý do kỹ thuật của mẫu 767 đạt 96,5%, cao hơn mức bình quân đối các máy bay mới. Ethiopian Airlines là hãng đầu tiên đặt hàng mẫu này vào tháng 12 năm 1982. Cấu hình tầm bay dài của chiếc 767 có trọng lượng cao hơn và sức chứa nhiên liệu lớn hơn, cho phép nó chở được lượng hàng hóa nặng hơn và bay được đến 11.825 km, thị trường nhắm đến là các hãng hàng không ngoài nước. Vào tháng 5 năm 1985, Cục Hàng không Liên bang lần đầu tiên cấp phép cho các chuyến bay sử dụng Boeing 767 quyền được bay ETOPS 120 phút, được thực hiện với từng hãng hàng không một và bắt đầu với Trans World Airlines, nếu như hãng đó đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn hàng không. và vào năm 1993 thì các cấu hình động cơ khác cũng được cấp phép tương tự. Việc này đã thúc đẩy sự tăng trưởng của các chuyến bay vượt đại dương bằng máy bay 767 cũng như đẩy mạnh doanh số bán hàng của nó.
Các phiên bản thân dài
Dự đoán ngành công nghiệp sẽ quan tâm đến các mẫu máy bay có sức chứa lớn hơn, Boeing công bố hai mẫu thân dài là 767-300 vào năm 1983 và phiên bản tầm bay mở rộng của nó là 767-300ER vào năm 1984. Japan Airlines đặt hàng chiếc 767-300 đầu tiên vào tháng 9 năm 1983. mẫu 767-300 được Japan Airlines đưa vào khai thác thương mại từ ngày 20 tháng 10 năm 1986. Năm 1986, hãng công bố mẫu máy bay 767-X, một phiên bản được thiết kế lại với cánh lớn hơn và khoang rộng hơn, nhưng không nhận được nhiều sự quan tâm. Tính đến cuối thập niên 1990, Boeing 767 đã vượt qua Đại Tây Dương thường xuyên hơn tất cả các loại máy bay khác cộng lại. Mẫu 767 cũng thúc đẩy kiểu bay từ-điểm-đến-điểm vốn bỏ qua các sân bay quá cảnh và bay thẳng đến điểm đến. Tận dụng lợi thế chi phí vận hành thấp và sức chứa thấp của dòng 767, các hãng hàng không mở các đường bay thẳng giữa các thành phố nhỏ, từ đó loại bỏ nhu cầu về các chuyến bay nối chuyến. Sáu tháng sau, hãng hàng không tạm thời ngừng khai thác toàn bộ máy bay 767 của mình sau khi phát hiện vết nứt trên giá đỡ động cơ của một số chiếc máy bay. Những vết nứt này có liên quan đến trọng lượng của động cơ RB211, vốn nặng hơn các loại động cơ 767 khác đến 1.000 kg.
thumb|Mẫu 767-400ER được giới thiệu vào ngày 26 tháng 8 năm 1999. Boeing giới thiệu phiên bản chở hàng thuộc dòng 767 có tên gọi là 767-300F. Mẫu máy bay này bắt đầu được UPS khai thác từ ngày 16 tháng 10 năm 1995. Mẫu 767-400X trong nghiên cứu này là phiên bản kéo dài thứ hai của chiếc 767 ban đầu, cho phép tăng sức chứa thêm 12% so với mẫu 767-300, Chiếc máy bay này chủ yếu nhắm đến nhu cầu thay thế dàn máy bay Lockheed L-1011 TriStars đã lỗi thời của hãng Delta Air Lines, và cạnh tranh với mẫu A330-200, phiên bản thân ngắn của Airbus A330. Mẫu 767-400ER cất cánh lần đầu tiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1999 và bắt đầu được hãng Continental Airlines đưa vào sử dụng thương mại từ ngày 14 tháng 9 năm 2000. Vào năm 2001, Boeing hủy bỏ kế hoạch về mẫu máy bay tầm xa tên là 767-400ERX để phát triển [[Boeing Sonic Cruiser, một mẫu máy bay phản lực có tốc độ cao hơn 15% so với mẫu 767 trong khi chi phí xăng dầu tương đương. Năm sau, Boeing công bố dòng máy bay KC-767, là biến thể quân sự thứ hai dựa trên mẫu 767-200ER. Mẫu KC-767 được sản xuất theo đơn đặt hàng của Không quân Ý vào tháng 10 năm 2002, với hai vai trò chính là tiếp nhiên liệu trên không và vận tải. Kế hoạch này đã không được thực hiện khi một vụ bê bối xung đột lợi ích xảy ra vào tháng 3 năm 2004, Những chiếc KC-767 đầu tiên được giao cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản năm 2008. Một năm sau, Boeing công bố mẫu máy bay thân vừa 7E7 làm từ vật liệu composite hứa hẹn giúp tiết kiệm 20% nhiên liệu. Mẫu máy bay mới này là giai đoạn đầu tiên trong dự án thay thế máy bay của Boeing tên là dự án Yellowstone. Theo đó, mẫu 767-300ER được chào bán cho các khách hàng đang chờ mẫu 787 giao hàng, bao gồm All Nippon Airways và Japan Airlines. Cũng do trì hoãn, những chiếc 767 quá 20 năm tuổi đã được dự kiến cho nghỉ hưu vẫn tiếp tục được sử dụng. Để tiếp tục khai thác những chiếc máy bay cũ, các hãng hàng không phải tăng cường quy trình bảo dưỡng, bao gồm kiểm định toàn diện hạng D và kiểm tra ăn mòn vốn là một vấn đề thường xuyên xuất hiện trên các máy bay 767 cũ. Những chiếc 787 đầu tiên được All Nippon Airways đưa vào sử dụng từ tháng 10 năm 2011, trễ kế hoạch đến ba năm rưỡi.
thumb|[[UPS Airlines|UPS, khách hàng lớn nhất của mẫu 767-300F|alt=Nhìn nghiêng chiếc máy bay hai động cơ phiên bản chở hàng của UPS, bánh đáp đã hạ]]
Vào năm 2007, doanh số 767 lại tăng trưởng khi UPS và DHL Aviation đặt thêm tổng cộng 33 chiếc 767-300F. Việc các khách hàng quan tâm nhiều đến mẫu máy bay chở hàng khiến Boeing cân nhắc nâng cấp tổng trọng lượng chuyên chở cho mẫu 767-200 và 767-300F, nới rộng cánh trên mẫu 767-400ER, và sử dụng cơ cấu bay như của mẫu 777. Tuy nhiên, số đơn đặt hàng 767 giảm từ 24 chiếc vào năm 2008 xuống còn chỉ 3 vào năm 2010. Cũng trong giai đoạn này, các hãng hàng không bắt đầu nâng cấp các máy bay đang hoạt động; vào năm 2008, American Airlines nâng cấp dàn 767-300ER của hãng, gắn thêm cánh lượn (tiếng Anh: blended winglets) từ công ty Aviation Partners Incorporated. Các hãng hàng không khác gồm có All Nippon Airways và Delta Air Lines cũng đặt mua những chiếc cánh lượn này.
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2011, chiếc 767 thứ 1.000 xuất xưởng. Đây cũng là chiếc 767 cuối cùng được sản xuất trên dây chuyền sản xuất máy bay 767 cũ. Mặc dù số đơn hàng hạn chế, các quan chức Boeing vẫn lạc quan rằng sẽ còn nhiều đơn đặt hàng bổ sung. để thay thế cho dàn máy bay KC-X. FedEx Express tiếp tục thông báo đơn hàng 19 chiếc kiểu -300F vào tháng 6 năm 2012. Tháng 6 năm 2015, FedEx cho biết hãng đang thúc đẩy việc cho các máy bay cũ ngừng hoạt động, vừa để phản ánh nhu cầu vận tải vừa để hiện đại hóa đội bay của mình. Ngày 21 tháng 7 năm 2015, FedEx đặt đơn hàng 767 lớn nhất với 50 chiếc 767-300F và gợi ý sẽ tiếp tục mua 50 chiếc nữa. FedEx nói hãng đã đặt 106 chiếc 767 chở hàng, dự kiến giao hàng từ 2018 đến 2023.
Thiết kế
Tổng quan
thumb|left|Phần mũi chiếc Boeing 767 đang được lắp ráp|alt=Ảnh cận cảnh phần mũi (bộ phận 41) của chiếc 767. Kính máy bay chưa được lắp vào hoàn chỉnh.
Boeing 767 thuộc kiểu máy bay cánh đơn treo tự do, cánh thấp. Cánh có góc xuôi sau 31,5° tối ưu khi bay ở tốc độ hành trình Mach 0,8 (858 km/h). Khung máy bay sử dụng hợp kim nhôm cải tiến, có bộ cánh làm từ vật liệu composite polymer gia cố sợi carbon, và cửa máy bay và các thành phần làm thon làm từ Kevlar. Tổng trọng lượng máy bay nhờ đó nhẹ hơn 860 kg so với các máy bay đời trước. Để phòng ngừa hư hại có thể xảy ra khi phần đuôi máy bay va chạm với đường băng lúc cất cánh, mẫu 767-300 và 767-400ER được trang bị thêm chống hậu (tailskid) có thể bật ra/thu vào. Mẫu 767 có các cửa ra ở phía đầu và đuôi máy bay, về phía bên trái. Sàn buồng lái hai chiếc máy bay có độ cao tương đương và khung cửa sổ có thiết kế tương tự, nhờ đó các phi công có cùng một góc nhìn khi nhìn từ buồng lái của hai chiếc máy bay. Đồng thời nhờ có thiết kế và tính năng tương tự nhau nên các phi công 767 có thể dễ dàng được cấp phép để lái mẫu 757.
Hệ thống bay
thumb|Buồng lái chiếc 767-400ER đã được nâng cấp, sử dụng các màn hình [[Màn hình tinh thể lỏng|LCD thay cho màn hình CRT.|alt=Buồng lái chiếc 767, với các màn hình tinh thể lỏng]]
Buồng lái Boeing 767 ban đầu sử dụng sáu màn hình ống tia âm cực (CRT) của Rockwell Collins để hiển thị hệ thống khí cụ bay điện tử (EFIS) và hệ thống chỉ báo động cơ và cảnh báo phi hành đoàn (EICAS), giúp các phi công thực hiện các tác vụ giám sát mà trước đây do cơ phó thứ hai đảm trách. Các màn hình CRT này thay thế cho các công cụ bằng cơ điện đã có mặt trên những loại máy bay đời trước. Vào năm 1984, Boeing 767 trở thành mẫu máy bay đầu tiên được Cục Hàng không Liên bang phê chuẩn CAT IIIb cho quá trình hạ cánh với tầm nhìn tối thiểu 300 m. Trên mẫu 767-400ER, buồng lái được tối giản thêm nữa với sáu màn hình tinh thể lỏng (LCD) của Rockwell Collins, có thiết kế tương tự với buồng lái mẫu 777 và 737 Next Generation. Để đảm bảo tính tương thích, có thể lập trình để các màn hình LCD này hiển thị thông tin tương tự như trên các mẫu 767 đời trước.
Boeing 767 được trang bị ba hệ thống thủy lực để điều khiển các cánh lái, bánh đáp và các thiết bị khác. Người ta còn lắp đặt cho Boeing 767 các tuốc bin khí nén (RAT) để cấp điện cho hệ thống điều khiển cơ bản trong các tình huống khẩn cấp. Cơ cấu điều khiển cánh lưng được áp dụng hệ thống kiểm soát bay fly-by-wire đời đầu, sử dụng tín hiệu điện thay cho hệ thống cáp điều khiển truyền thống. Vì thế, các hành khách chỉ cách lối đi tối đa một ghế.
Mẫu 767 có chỗ để hành lý rộng hơn và có nhiều nhà vệ sinh trên số khách hơn những loại máy bay trước đó. Phía đuôi máy bay là nhà bếp lớn, phục vụ được nhiều bữa ăn hơn và yêu cầu tiếp tế tại các sân bay cũng đơn giản hơn. Nội thất Signature Interior xuất hiện trên những chiếc 767 mới, bao gồm chỗ để hành lý lớn, trần cong và hệ thống chiếu sáng gián tiếp. Chiếc 767-400ER cũng sử dụng loại cửa sổ lớn như trên chiếc 777. Những chiếc 767 cũ hơn cũng có tùy chọn nâng cấp lên nội thất Signature Interior. hoặc những bản cải biến của bên thứ ba như gói NuLook 767 của Heath Tecna.
Các phiên bản
Dòng máy bay 767 có ba phiên bản chiều dài khác nhau. Các phiên bản tầm bay xa gồm có 767-200ER và 767-300ER,). Phía sau chỉ số sức chứa có thể có hoặc không có ký hiệu tầm bay. Hệ thống định danh chủng loại máy bay của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO) cũng có cách gọi tên tương tự, chỉ thêm một chữ cái vào phía trước để xác định nhà sản xuất của máy bay;
767-200
nhỏ|767-200 của [[Japan Airlines|Japan airlines]] Boeing 767-200 là mẫu máy bay đầu tiên trong dòng 767, được United Airlines đưa vào khai thác đầu tiên vào năm 1982.
Mẫu 767-200 bị dừng sản xuất vào cuối thập niên 1980 khi mẫu tầm bay xa là 767-200ER ra mắt và thay thế nó. và ủy quyền cho Israel Aerospace Industries thực hiện việc chuyển đổi này từ năm 2005. Việc chuyển đổi gồm có lắp đặt cửa chất dỡ hàng, gia cố sàn khoang chính và lắp đặt các thiết bị giám sát tải trọng. Chiếc 767-200SF được coi như là bản thay thế cho mẫu máy bay chở hàng Douglas DC-8. Theo hợp đồng ký kết với Không quân Hoa Kỳ năm 2011, Boeing lắp ráp bốn chiếc máy bay thử nghiệm – hai chiếc 767-2C và hai chiếc KC-46 – mẫu máy bay tiếp nhiên liệu trên không dựa trên chiếc 767-2C. Tính đến tháng 2 năm 2017, Không quân Hoa Kỳ đã đặt mua 38 chiếc KC-46 trong tổng số 179 chiếc đơn vị này dự định sẽ mua trong tương lai. Boeing đã giao 104 chiếc 767-300 Tính đến tháng 2 năm 2017, Boeing đã giao 583 chiếc 767-300ER.
767-300F
Mẫu 767-300F là phiên bản chở hàng dựa trên mẫu 767-300ER, được khai thác bởi các hãng vận chuyển hàng hóa mà mở đầu là UPS Airlines vào năm 1995. Boeing 767-300F có thể chứa được 24 pallet tiêu chuẩn (220 cm × 320 cm) ở khoang chính và 30 thùng hàng LD2 ở khoang chở hàng, Chiếc máy bay có một cửa ở khoang chính cho các phi công, hai cửa bên trái và một cửa bên phải sử dụng để chất dỡ hàng ở khoang hàng hóa. Việc chuyển đổi này được thực hiện lần đầu tiên bởi ST Aerospace Services tại Singapore, bao gồm việc lắp đặt thêm cửa hàng hóa trên khoang chính, gia cố sàn khoang chính và bổ sung các thiết bị giám sát hàng hóa và độ an toàn.
767-400ER
thế=Máy bay hai động cơ màu trắng đuôi xanh đang hạ cánh với bánh đáp đã bật mở|nhỏ|Chiếc 767-400ER của [[Delta Air Lines|Delta airlines hạ cánh xuống heathrow airport]] Boeing 767-400ER là mẫu máy bay đầu tiên của hãng được nâng cấp chiều dài đến hai lần, bước vào hoạt động thương mại lần đầu vào năm 2000 với hãng Continental Airlines. Cánh máy bay rộng hơn 4,36 m nhờ thêm vào các cánh gập (raked wingtips). Cấp nguồn cho máy bay là các động cơ Pratt & Whitney PW4000 hoặc General Electric CF6 đời mới. Bởi sức chứa nhiên liệu không thay đổi so với mẫu trước, mẫu 767-400ER có tầm bay 10.418 km, thấp hơn các mẫu tầm bay xa trước đó. Boeing không phát triển mẫu 767-400, và mẫu tầm xa hơn nữa là 767-400ERX được chào bán vào năm 2000 nhưng bị hủy bỏ một năm sau đó, Kể từ năm 2014, Boeing không còn để mẫu 767-400ER và mẫu -200ER trong bảng giá. Tổng cộng có 37 chiếc máy bay được giao cho hai hãng khách hàng là Continental Airlines (đã sáp nhập với United Airlines) và Delta Air Lines. Mẫu này cạnh tranh với chiếc Airbus A330-200.
Quân sự
Boeing 767 còn phục vụ trong quân sự và chính phủ, với vai trò từ giám sát trên không, tiếp nhiên liệu và vận tải chiến lược cho đến vận chuyển VIP. Những chiếc 767 sử dụng trong quân sự thường dựa trên phiên bản bay xa nhất là mẫu 767-200ER. Chiếc đầu tiên cất cánh vào ngày 21 tháng 8 năm 1987, được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả khi sử dụng các cảm biến quang học trên không để phát hiện và theo dõi các tên lửa liên lục địa thù địch. Các chỉnh sửa gồm có việc thêm vào một phần gù chạy từ mũi máy bay đến cạnh sau cánh máy bay Sau này chiếc máy bay được đổi tên thành Airborne Surveillance Testbed hay AST (Máy bay thử nghiệm giám sát trên không). Khi chương trình AST kết thúc vào năm 2002, chiếc máy bay được cho nghỉ hưu và tháo dỡ.
thumb|Máy bay E-767 của [[Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản|alt=Nhìn nghiêng chiếc máy bay quân sự của Nhật Bản trên đường băng sân bay, với cảm biến được đặt trên lưng]]
- E-767 – dòng máy bay chỉ huy và cảnh báo trên không của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản; nó giống như hệ thống trang thiết bị của chiếc Boeing E-3 Sentry trên một chiếc 767-200ER. Những chỉnh sửa trên chiếc 767-200ER được thực hiện tại Boeing Integrated Defense Systems tại Wichita, Kansas, bao gồm gia cố cấu trúc để lắp đặt thêm một hệ thống radar giám sát trên lưng, sửa đổi khung động cơ, các thành phần điện tử và nội thất khác. Nhật Bản đang sử dụng bốn chiếc E-767, chiếc đầu tiên được giao vào tháng 3 năm 1998.
- KC-767 Advanced Tanker – dòng máy bay vận chuyển và tiếp nhiên liệu dựa trên mẫu 767-200ER cho cuộc thi máy bay KC-X của Không quân Hoa Kỳ. nhưng sau đó bị hủy bỏ do các cáo buộc xung đột lợi ích. được trang bị vòi tiếp nhiên liệu điều khiển fly-by-wire, hệ thống tiếp nhiên liệu góc nhìn máy tính và buồng lái màn hình LCD như trên mẫu 767-400ER. và Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Trong khi đó, Aeronautica Militare nhận được chiếc KC-767A đầu tiên trong số bốn chiếc vào tháng 1 năm 2011.
- Các bản chuyển đổi – dòng 767 MMTT hay Multi-Mission Tanker Transport (Máy bay vận tải và tiếp nhiên liệu đa dụng) dựa trên mẫu 767-200ER, được Israel Aerospace Industries chỉnh sửa và sử dụng bởi Không quân Columbia (Fuerza Aérea Colombiana). Năm 2013, Không quân Brasil đặt hàng IAI hai chiếc 767-300ER chuyển đổi thành mẫu vận chuyển nhiên liệu cho chương trình KC-X2 của mình.
Các mẫu ngừng phát triển
767-400ERX
Năm 2000, Boeing chào bán mẫu 767-400ERX, phiên bản tầm bay xa của -400ER. Mẫu máy bay được giới thiệu cùng thời điểm với mẫu 747X và sử dụng những động cơ tương tự như 747X – Engine Alliance GP7000 và Rolls-Royce Trent 600. Nhà sản xuất cho biết mẫu máy bay này có thể bay quãng đường dài 12.023 km. Thời điểm đó, hãng Kenya Airways đặt ba chiếc 767-400ERX để bổ sung vào đội máy bay 767 của mình, nhưng khi Boeing ngừng phát triển mẫu này vào năm 2001, hãng chuyển sang đặt mua mẫu 777-200ER.
E-10 MC2A
Northrop Grumman E-10 MC2A là dòng máy bay dựa trên mẫu 767-400ER, được dự tính sẽ thay thế cho dòng E-3 Sentry của Không quân Hoa Kỳ mang tên Northrop Grumman E-8 Joint STARS và dòng máy bay thu thập tín hiệu RC-135. Mẫu E-10 MC2A sẽ được trang bị một hệ thống chỉ huy và cảnh báo hoàn toàn mới, ăngten quét mảng pha điện tử chủ động (Active electronically scanned array – AESA) có khả năng làm tê liệt máy bay hoặc pháo kích của đối phương. Một chiếc 767-400ER được sử dụng để thử nghiệm tính tương thích hệ thống, tuy nhiên khi chương trình bị hủy bỏ vào tháng 1 năm 2009, nó được bán lại cho Bahrain và trở thành phương tiện vận chuyển VIP. Delta Air Lines là khách hàng lớn nhất, với 117 chiếc 767 đã nhận. Chiếc Boeing 767 thứ 100 của hãng là một chiếc 767-400ER và đã được giao vào tháng 10 năm 2000. FedEx xác nhận hãng đã đặt hàng 50 chiếc phiên bản vận tải, dự kiến giao từ năm 2018 đến 2023. Hãng vận tải sử dụng nhiều máy bay 767 nhất là UPS Airlines, với 59 chiếc trong đội bay tính đến tháng 2 năm 2017.
Đặt hàng và giao hàng
- nhỏ|Máy bay 767-300 của [[Tajik Air tại sân bay Dushanbe năm 2017]]Dữ liệu đến tháng 5/2021
Tổng quan các mẫu
thumb|Máy bay 767-300ER của [[Ukraine International Airlines tại sân bay Ben Gurion]]
- Dữ liệu đến tháng 5/2021. trong đó có 16 vụ tai nạn khiến thân máy bay hư hại hoàn toàn. Sáu vụ rơi máy bay trong đó có ba vụ không tặc đã khiến tổng cộng 851 người thiệt mạng. Chuyến bay 004 của Lauda Air là vụ tai nạn làm chết người đầu tiên, xảy ra gần Bangkok vào ngày 26 tháng 5 năm 1991, sau khi hệ thống thổi ngược (thrust reverser) trên động cơ bên trái chiếc 767-300ER bất chợt được kích hoạt trong khi máy bay đang bay, khiến 223 người tử vong; sau tai nạn tất cả các hệ thống thổi ngược bị ngừng sử dụng cho đến khi một thiết kế mới được đưa ra. Các nhà điều tra xác định rằng lỗi xảy ra liên quan đến một cái van điện vốn được sử dụng trên các máy bay Boeing mới. Sau đó người ta lắp đặt một loại chốt khóa mới trên những chiếc máy bay bị ảnh hưởng, bao gồm cả những chiếc 767. Ngày 31 tháng 10 năm 1999, chuyến bay 990 của EgyptAir, một chiếc 767-300ER, đã rơi xuống Nantucket, Massachusetts, tại hải phận quốc tế, khiến toàn bộ 217 người thiệt mạng. Ban An toàn Giao thông Quốc gia Hoa Kỳ (National Transportation Safety Board – NTSB) xác định nguyên nhân khả dĩ là do hành động cố ý của cơ phó, nhưng Ai Cập không đồng tình với kết luận này. Vào ngày 15 tháng 4 năm 2002, chuyến bay 129 của Air China, một chiếc 767-200ER, đã đâm vào một ngọn đồi trong thời tiết xấu khi đang cố hạ cánh xuống sân bay quốc tế Gimhae ở Busan, Hàn Quốc. Vụ tai nạn khiến 129 trong số 166 người trên máy bay tử vong; nguyên nhân sau đó được xác định là do lỗi phi công.
thumb|Chiếc máy bay trong vụ "[[Tàu lượn Gimli|Gimli Glider" đậu tại Cảng Hàng không và Không gian Mojave vào tháng 2 năm 2008|alt=Nhìn nghiêng chiếc máy bay của Air Canada đang đậu tại sa mạc, với cầu thang đặt gần cửa chính máy bay]]
Ngày 23 tháng 7 năm 1983, chuyến bay 143 của Air Canada, một chiếc 767-200, hết nhiên liệu khi đang bay và đã phải lượn một quãng đường dài gần 80 km trước khi hạ cánh khẩn cấp tại Gimli, Manitoba. Các phi công đã sử dụng turbin khí nén của máy bay để cấp nguồn cho hệ thống thủy lực và điều khiển chiếc máy bay. Không có thiệt hại nào về nhân mạng và chỉ có một người bị thương nhẹ. Chiếc máy bay, số đăng ký C-GAUN, sau đó được đặt tên là "Tàu lượn Gimli" (Gimli Glider) theo tên sân bay mà nó đáp xuống. Chiếc máy bay tiếp tục thực hiện các chuyến bay cho hãng Air Canada cho đến lúc nghỉ hưu vào tháng 1 năm 2008.
Chiếc 767 đã bị cướp sáu lần, trong đó có ba vụ gây thiệt hại về người, với những vụ máy bay buộc phải hạ cánh trên mặt nước như thế này, rất hiếm khi có người sống sót. Trong sự kiện 11 tháng 9 vào năm 2001, hai chiếc 767 đã được sử dụng để đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới, khiến hai tòa tháp chính của khu phức hợp bị sụp đổ. Chiếc 767-200ER trong chuyến bay 11 của American Airlines đâm vào tòa tháp phía bắc, khiến 92 người trên máy bay tử vong, và chiếc 767-200 trong chuyến bay 175 của United Airlines đâm vào tòa tháp phía nam, khiến toàn bộ 65 người trên khoang tử vong. Hơn 2.600 người khác thiệt mạng khi hai tòa tháp đổ sụp xuống. Một âm mưu giấu bom trong giày bất thành vào năm 2001 liên quan đến một chiếc 767-300ER của American Airlines khiến các cơ quan hữu quan phải yêu cầu hành khách cởi giày ra khi kiểm tra tại các chốt an ninh sân bay Hoa Kỳ.
Ngày 1 tháng 11 năm 2011, chiếc 767-300ER trong chuyến bay 16 của LOT Polish Airlines đã hạ cánh an toàn tại sân bay Frédéric Chopin Warszawa tại Warszawa, Ba Lan sau khi một sự cố máy móc liên quan đến bánh đáp khiến chiếc máy bay buộc phải hạ cánh khẩn cấp mà không hạ bánh đáp. Không có thiệt hại nào về người, nhưng chiếc máy bay bị hư hại nặng và cuối cùng bị tháo dỡ. Tại thời điểm tai nạn, các nhà phân tích hàng không cho rằng đây là lần đầu tiên bánh đáp hoàn toàn không đáp ứng trong lịch sử hoạt động của Boeing 767. Cuộc điều tra sau đó cho thấy một chiếc ống dẫn bị hỏng đã khiến hệ thống mở bánh đáp chính không sử dụng được, đồng thời hệ thống dự phòng cũng không hoạt động vì một chiếc cầu dao tình cờ bị tắt. Ngoài ra, có nhiều vụ phao cứu hộ tự bung trong khi máy bay đang bảo dưỡng, hay thậm chí đang bay. Cuối năm 2015, Cục Hàng không Liên bang đưa ra chỉ thị sơ bộ nhằm khắc phục sự cố này.
Ngày 28 tháng 10 năm 2016, chiếc 767-300ER trong chuyến bay 383 của American Airlines, chở 161 hành khách và 9 thành viên phi hành đoàn, đã hủy bỏ cất cánh tại sân bay quốc tế O'Hare sau khi cánh quạt của động cơ GE CF6-80C2 bên phải đột nhiên vỡ tung. Các mảnh động cơ xuyên thủng cánh máy bay khiến nhiên liệu chảy ra và thiêu cháy phần bên phải chiếc máy bay. Hành khách và phi hành đoàn sơ tán khỏi chiếc máy bay an toàn, chỉ có 20 hành khách và một tiếp viên bị thương nhẹ khi sử dụng phao cứu hộ.
Nghỉ hưu và trưng bày
thumb|Chiếc "The Spirit of Delta" tại [[Bảo tàng máy bay Delta|alt=Nhìn nghiêng một chiếc máy bay hai động cơ của Delta Air Lines đang đậu, có cầu thang đặt gần cửa ra vào máy bay]]
Khi những chiếc 767 mới lăn bánh khỏi xưởng sản xuất, thì những chiếc cũ đã hoạt động trong thời gian dài cũng được nghỉ hưu và tháo dỡ. Tuy nhiên có một chiếc 767 được giữ lại để triển lãm. Chiếc máy bay này mang số đăng ký N102DA và là chiếc 767-200 đầu tiên của hãng Delta Air Lines, đồng thời là chiếc thứ 12 được lắp ráp. Nội ngoại thất chiếc máy bay được giữ nguyên như những ngày đầu. Nhà để máy bay được nâng cấp từ năm 2013 và đến nay đã hoàn tất, cho phép khách du lịch tham quan mỗi ngày.
Vào tháng 6 năm 2005, bốn chiếc 767-200 đã nghỉ hưu của American Airlines được tháo dỡ tại Roswell, New Mexico. Người ta giữ lại phần mũi máy bay để sử dụng trong điện ảnh hoặc bán cho các nhà sưu tập. Khoang lái của một trong bốn chiếc máy bay đó, số hiệu N301AA – chiếc 767-200 đầu tiên giao cho American Airlines và là chiếc thứ tám được lắp ráp, đã được vận chuyển đến Victorville, California để trùng tu và trưng bày. Năm 2013, phần khoang lái chiếc N301AA được trưng bày tạm thời tại một vị trí thuộc Bảo tàng Hàng không Hoa Kỳ (American Museum of Aviation), một tổ chức phi lợi nhuận tại Las Vegas, Nevada, cùng với những hình ảnh về hãng hàng không American Airlines.