✨Alice ở xứ sở thần tiên (phim 2010)

Alice ở xứ sở thần tiên (phim 2010)

Alice ở xứ sở thần tiên (tựa gốc tiếng Anh: Alice in Wonderland) là một bộ phim điện ảnh kỳ ảo đen tối của Mỹ được công chiếu năm 2010. Bộ phim do Tim Burton làm đạo diễn và phần kịch bản do Linda Woolverton chấp bút. Phim có sự tham gia diễn xuất của Johnny Depp, Anne Hathaway, Helena Bonham Carter, Crispin Glover, Matt Lucas và Mia Wasikowska, cùng với các vai lồng tiếng do Alan Rickman, Stephen Fry, Michael Sheen và Timothy Spall thể hiện. Lấy cảm hứng từ hai cuốn tiểu thuyết kỳ ảo Alice ở xứ sở thần tiênAlice ở xứ sở trong gương của nhà văn Lewis Carroll, cũng như bộ phim hoạt hình cùng tên phát hành năm 1951, nội dung phim kể về cô thiếu nữ 19 tuổi Alice Kingsleigh – được cho là người có thể đưa Nữ hoàng Trắng trở lại ngai vàng của mình với sự giúp đỡ của Thợ làm mũ điên. Cô là người duy nhất có thể đánh bại Jabberwocky, một sinh vật hình rồng do Nữ hoàng Đỏ điều khiển dùng để khủng bố cư dân của xứ Underland. Trong tình huống này, Thợ làm mũ điên và Alice phải chiến đấu với Nữ hoàng Đỏ để bảo vệ thế giới.

Alice ở xứ sở thần tiên do hãng Walt Disney Pictures chịu trách nhiệm sản xuất và được ghi hình tại Liên hiệp Anh và Mỹ. Bộ phim công chiếu ra mắt ở Luân Đôn tại rạp Odeon Leicester Square vào ngày 25 tháng 2 năm 2010, đồng thời được công chiếu tại Liên hiệp Anh và Mỹ thông qua các định dạng Disney Digital 3D, RealD 3D và IMAX 3D cũng như tại các rạp chiếu thông thường vào ngày 5 tháng 3 năm 2010. Phim từng khởi chiếu ở Việt Nam vào ngày 12 tháng 3 năm 2010. Đây là tác phẩm điện ảnh có doanh thu cao thứ hai của năm 2010.

Alice ở xứ sở thần tiên nhận được những đánh giá trái chiều ở thời điểm phát hành; mặc dù nhận lời khen cho phong cách hình ảnh, phục trang, nhạc nền và hiệu ứng kỹ xảo, phim lại bị phê bình bởi lối kể chuyện thiếu mạch lạc. Tác phẩm nhận được ba đề cử tại lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 68, trong đó có hạng mục Phim hài hoặc ca nhạc hay nhất. Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 83, Alice ở xứ sở thần tiên đoạt các giải Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất và Thiết kế phục trang đẹp nhất cũng như giành đề cử Hiệu ứng kỹ xảo đẹp nhất. Phim thu về hơn 1,025 tỷ USD tiền bán vé và trở thành phim diện ảnh ăn khách thứ 5 mọi thời đại trong thời gian chiếu rạp. Alice ở xứ sở thần tiên là tác phẩm khởi xướng xu thế làm phim kỳ ảo và cổ tích người đóng (dù không phải là phim đầu tiên thuộc trào lưu này), đặc biệt là từ Walt Disney Studios. Phần hậu truyện mang tên Alice ở xứ sở trong gương đã công chiếu vào ngày 27 tháng 5 năm 2016.

Nội dung

Năm 1871 ở London, bị phiền muộn bởi một giấc mơ kì lạ lặp đi lặp lại và đau buồn vì mất cha, thiếu nữ 19 tuổi Alice Kingsleigh dự một bữa tiệc trong vườn tại gia thất của Lãnh chúa Ascot. Tại đây, cô đối mặt với lời câu hôn bất ngờ từ Hamish (con trai Lãnh chúa Ascot) và những kỳ vọng ngột ngạt mà xã hội đặt vào cô. Do dự không biết làm thế nào, cô phát hiện và đuổi theo một chú thỏ thân thuộc mặc áo gi-lê và đeo đồng hồ bỏ túi, rồi bị rơi vào một hố thỏ sâu dưới gốc cây. Sau khi uống một cái chai dán nhãn 'Drink Me' (gọi là Pishsalver), cô bước qua cánh cửa tí hon và đặt chân đến khu rừng nằm trong xứ sở phép thuật tên là Underland, nơi cô được chào đón bởi Thỏ Trắng, Sóc Chuột, Chim cưu, những bông hoa biết nói và cặp song sinh giống hệt nhau Tweedledee và Tweedledum; họ dường như đều biết cô từ trước.

Dù Alice khăng khăng rằng tất cả chỉ là mơ, cô biết được định mệnh của mình là phải đánh bại Jabberwocky và chấm dứt triều đại bạo chúa của Nữ hoàng Đỏ, theo như Sâu bướm Absolem tiên tri. Rồi cả nhóm bị sinh vật phàm ăn Bandersnatch và một đội kị binh của Nữ hoàng Đỏ phục kích – do Người Hầu Quân Cơ chỉ huy. Tất cả đều bị bắt; ngoại trừ Alice kịp trốn thoát và Sóc Chuột – người tước đi một mắt của Bandersnatch. Người Hầu tâu với Nữ hoàng Đỏ rằng Alice là mối đe dọa cho ngai vàng, và y được lệnh phải truy lùng cô ngay lập tức. Trong khi đó, Alice nhận được sự đón tiếp từ Mèo Cheshire, và chú mèo chỉ đường cho cô đến dự tiệc trà của Thợ làm mũ điên, Thỏ Tháng Ba và Sóc Chuột. Thợ làm mũ giải thích rằng Nữ hoàng Đỏ là người chiếm lấy vùng đất Underland, đoạt ngôi từ cô em gái Nữ hoàng Trắng; và anh gia nhập lực lượng kháng chiến sau khi Nữ hoàng Đỏ phá hủy làng và sát hại gia đình anh. Khi đám kị binh quân cơ xuất hiện, Thợ làm mũ giúp Alice tránh bị bắt bằng cách tự giao nộp mình cho chúng. Sau đó, Alice được phát hiện bởi Chó săn của Người Hầu, mà thực chất là đồng mình của quân kháng chiến. Alice nhất quyết muốn được đưa tới lâu đài của Nữ hoàng Đỏ nhằm giải cứu Thợ làm mũ. Alice ăn Upelkuchen – một cái bánh dán nhãn 'Eat Me' – và hóa khổng lồ, xâm nhập vào tòa lâu đài với danh xưng cận thần tên "Um."

Alice biết được rằng thanh kiếm chết chóc – thứ vũ khí duy nhất có thể tiêu diệt Jabberwocky – bị khóa cất trong hang của Bandersnatch. Người Hầu cố tìm cách dụ dỗ "Um" song bị cô khước từ, làm cho Nữ hoàng Đỏ nổi cơn ghen đòi chặt đầu "Um". Alice đoạt lấy thanh kiếm và kết bạn với Bandersnatch bằng cách trả lại mắt cho nó. Tiếp đó Bandersnatch tỏ lòng biết ơn khi để cô cưỡi trên lưng trốn thoát, rồi Alice tìm đến gặp Nữ hoàng Trắng giao thanh kiếm; để đáp lại Nữ hoàng ban cho Alice một lọ thuốc đưa cô trở về kích cỡ bình thường. Mèo Cheshire sử dụng năng lực biến hình để cứu Thợ làm mũ điên khỏi bị hành quyết. Kế đó, Thợ làm Mũ kích động cuộc nổi dậy giữa lòng dân chúng của Nữ hoàng Đỏ. Nữ hoàng Đỏ cố tìm cách trấn áp cuộc nổi dây, song để cho Thợ làm mũ và nhóm của anh nhân cơ hội trốn thoát. Cuối cùng Absolem giúp Alice nhớ ra cô từng đến Underland khi còn bé (gọi vùng đất là "Wonderland"), và sau cùng nhận ra Underland không phải mơ. Absolem khuyên cô nên chiến đấu với Jabberwocky, ngay trước khi ông hoàn tất biến hình thành một con nhộng.

Hai Nữ hoàng tập trung quân đội của mình trên một chiến trường như bàn cờ, cử Alice và Jabberwocky đứng ra quyết đấu trong một trận chiến duy nhất. Alice là đối thủ của Jabberwocky, còn hai đội quân kia chạm trán nhau. Cuối cùng, Alice chặt đầu của Jabberwocky và hạ gục nó. Nhờ chiến thắng của Alice, đám kị binh quân cơ quay lưng chống lại Nữ hoàng Đỏ. Nhằm trừng phạt những tội ác của họ, Nữ hoàng Trắng ban lệnh trục xuất chị mình và Người Hầu đi lưu đày cùng nhau. Nữ hoàng Trắng ban cho Alice một lọ nhỏ đựng máu tím của Jabberwocky sở hữu năng lực hiện thực hóa bất cứ điều ước nào của cô. Cô quyết định trở về thế giới của mình sau khi nói lời tạm biệt bạn bè. Trở về bữa tiệc, Alice từ chối lời cầu hôn của Hamish và làm Lãnh chúa Ascot ấn tượng với ý tưởng lập nên những con đường biển giao thương tới Hồng Kông, truyền cảm hứng cho ông nhận cô làm học việc của mình. Khi Alice chuẩn bị ra khơi trên một con tàu giao thương, một chú bướm xanh đậu trên vai Alice, và cô nhận ra ngay đó là Absolem.

Diễn viên

Người đóng

  • Johnny Depp vai Tarrant Hightopp, hay Thợ làm mũ điên: là vị thị trưởng nghiệp dư của xứ Wonderland, người phải ngậm đắng nuốt cay nhận chức vụ này; về sau anh trở thành lãnh đạo kiêm đội trưởng của lực lượng kháng chiến chống Iracebeth. Mairi Ella Challen là người hóa thân Alice lúc 6 tuổi.
  • Helena Bonham Carter vai Nữ hoàng Đỏ Iracebeth: Iracebeth là cô chị gắt gỏng, cứng đầu và giết người tàn nhẫn của Mirana, cô là nữ hoàng của xứ Wonderland. Cô là hình ảnh hợp nhất từ hai nhân vật của Carroll: Nữ hoàng Đỏ và Nữ hoàng Cơ Hậu. Theo Hathaway, "Cô ấy ra đời từ cùng một nguồn gen như Nữ hoàng Đỏ. Cô thật sự thích mặt tối, nhưng cô sợ đi quá đà mà lún sâu vào nó nên cô làm cho mọi thứ trong thật nhẹ nhàng và hạnh phúc. Nhưng cô ấy sống ở nơi đó vì sợ rằng mình sẽ không thể kiểm soát bản thân." Hai nhân vật được tạo hình bằng sự kết hợp của công nghệ CGI và người đóng, đặc biệt gương mặt của Lucas được ghép bằng kỹ thuật số vào một cơ thể toàn hoạt hình. Trong lúc hóa thân vào nhân vật, Lucas đã phải mặc một bộ đồ ghi lại chuyển động hình giọt nước và đi cà kheo. Nhằm thể hiện cả hai nhân vật, Lucas được "nhân đôi" bởi Ethan Cohn.
  • Frances de la Tour vai Imogene: Dì của Alice.
  • Timothy Spall vai Bayard Hamar: Là chú chó con thú cưng cũ của Stayne và có vai trò đưa tin của của quân kháng chiến. Mặc dù Bayard không xuất hiện trong nguyên tác, một nhân vật có nét tương đồng tên Puppy (Chó con) dường như là nguồn cảm hứng cho nhân vật.
  • Paul Whitehouse vai Thỏ Tháng ba Thackery Earwicket: là cộng sự của Tarrant và đô đốc của quân kháng chiến. và nhắc đến sinh vật được mô tả bởi tên bài thơ thay vì cái tên "Jabberwock" sử dụng trong bài thơ. Burton còn cho biết ông không thấy phiên bản của mình giống như một phần hậu truyện của bất cứ phim Alice nào ra đời trước đó, cũng không phải là tác phẩm "tái tưởng tượng". Phim cũng được quay tại Culver Studios. Một tuần sau thông báo trên, Cineworld (đơn vị sở hữu 24% cổ phần doanh thu phòng vé ở Anh) chọn chiếu phim ở hơn 150 rạp. Giám đốc điều hành Cineworld, ông Steve Wiener phát biểu: "Là những người dẫn đầu trong mảng 3D, chúng tôi không muốn khán giả bỏ lỡ một tác phẩm tuyệt vời về mặt thị giác như vậy. Giống như thành công của Avatar đã thể hiện, hiện có một lượng lớn người xem thèm khát trải nghiệm 3D". Tại Việt Nam, Alice khởi chiếu tại các cụm rạp của đơn vị Megastar trên toàn quốc vào ngày 12 tháng 3 năm 2010.

Cũng tại ComicCon, những đạo cụ làm phim được trưng bày trong một buổi triển lãm "Alice ở xứ sở thần tiên". Những bộ phục trang có mặt trong buổi triển lãm gồm có váy, ghế, bộ tóc giả, kính và cây trượng của Nữ hoàng Đỏ; váy, bộ tóc giả và một mô hình lâu đài nhỏ của Nữ hoàng Trắng; bộ đồ, tóc, tóc giả, ghế và bàn của Thợ làm mũ điên; váy và bộ giáp chiến đấu (để đánh bại Jabberwocky) của Alice. Những đạo cụ khác gồm có những chiếc chai "DRINK ME" (Uống tôi đi), chùm chìa khóa, một cái bánh ngọt in chữ "EAT ME" (Ăn tôi đi) và những mô hình Thỏ Trắng và Thỏ Tháng ba.

Trò chơi điện tử

Ngày 23 tháng 7 năm 2009, Disney Interactive Studios thông báo một trò chơi điện tử của Alice in Wonderland (do xưởng game Étranges Libellules của Pháp phát triển) sẽ được trình làng vào cùng tuần chiếu bộ phim trên các hệ máy chơi Wii, Nintendo DS và Microsoft Windows. Phần soundtrack được sáng tác bởi nhà soạn nhạc trò chơi điện tử Richard Jacques. Tuy nhiên do vài sơ sót, một lượng nhỏ các bản đĩa đã được tung lên kệ bán sớm một tuần ở những cửa hàng nhỏ hơn, song chúng nhanh chóng bị gỡ xuống, dẫu vậy một số đĩa đã được xác nhận đặt mua trước ngày ra mắt. Trong tuần đầu phát hành (1–6 tháng 6 năm 2010), đĩa phim bán ra 2.095.878 đơn vị DVD (tương đương 35,44 triệu USD) và chiếm ngôi đầu bảng doanh số bán DVD trong hai tuần liên tiếp. Đến 22 tháng 5 năm 2011, tác phẩm bán ra 4.313.680 đơn vị (76,41 triệu USD). Sản phẩm không lọt được vào top 10 DVD bán chạy nhất năm 2010 tính theo số đơn vị tiêu thụ, nhưng lại đứng hạng 10 trên chính bảng xếp hạng ấy nếu tính về doanh số bán hàng.

Đón nhận

Doanh thu phòng vé

Alice ở xứ sở thần tiên đã thu về 334,19 triệu USD ở Bắc Mỹ và 691,27 triệu USD ở những vùng lãnh thổ khác, nâng tổng mức doanh thu toàn cầu lên con số 1,025 tỷ USD so với kinh phí 200 triệu USD. và phim có doanh thu cao thứ hai của Anne Hathaway. Ngoài ra, bộ phim là bản chuyển thể sách thiếu nhi có doanh thu cao thứ hai (toàn thế giới, cũng như tính riêng tại Bắc Mỹ và ngoài Bắc Mỹ).

Trong dịp cuối tuần đầu tiên, Alice ở xứ sở thần tiên thu về 220,1 triệu USD toàn cầu, đánh dấu tác phẩm mở màn lớn thứ hai từ trước tới nay dành cho phim điện không phát hành vào kì nghỉ lễ hoặc mùa hè (xếp sau Đấu trường sinh tử), phim ăn khách thứ tư do Disney phân phối và tác phẩm ăn khách thứ tư trong năm 2010. Bộ phim thống trị phòng vé thế giới trong ba dịp cuối tuần liên tiếp.

Ở thị trường Bắc Mỹ, Alice ở xứ sở thần tiên là phim điện ảnh có doanh thu cao thứ 4, nhưng bị trượt khỏi top 100 nếu tính lạm phát. Đây còn là phim có doanh thu cao thứ hai của năm 2010 (sau Câu chuyện đồ chơi 3), xếp vị trí số một và thiết lập kỷ lục khởi chiếu mới vào tháng Ba. Alice đem về 116,1 triệu USD trong dịp cuối tuần khởi chiếu, phá kỷ lục phim mở màn lớn nhất dịp cuối tuần vào tháng Ba (trước đó thuộc về 300), Alice là tác phẩm có doanh thu dịp cuối tuần khởi chiếu cao thứ 17 từ trước đến nay và phim 3D ăn khách thứ 5. Doanh thu dịp cuối tuần khởi chiếu xuất phát từ những suất chiếu 3D là 81,3 triệu USD (chiếm 70% tổng doanh thu dịp cuối tuần), qua đó phá kỷ lục phim 3D có doanh thu dịp cuối tuần lớn nhất nhưng sau đó bị soán ngôi bởi Biệt đội siêu anh hùng của Marvel (108 triệu USD). Tác phẩm sở hữu lượng bán vé trung bình dịp cuối tuần cao nhất năm 2010 (31.143 USD cho mỗi rạp) và lớn nhất dành phim dán nhãn PG. Bộ phim đã phá vở kỷ lục dịp cuối tuần khởi chiếu IMAX khi kiếm về 12,2 triệu USD ở 188 phòng chiếu IMAX, tức trung bình 64.197 cho mỗi phòng chiếu. Kỷ lục lần đầu bị xô đổ bởi Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2 (15,2 triệu USD). Alice ngừng chiếu tại các rạp vào ngày 8 tháng 7 năm 2010 với 334,2 triệu USD.

Ngoài Bắc Mỹ, Alice ở xứ sở thần tiên là phim có doanh thu cao thứ 15, phim có doanh thu cao nhất năm 2010, phim Disney có doanh thu cao thứ 4, phim có doanh thu cao thứ hai mà Johnny Depp đóng Nhật Bản là quốc gia đem về cho bộ phim nhiều tiền bán vé nhất sau Bắc Mỹ với 133,7 triệu USD, kế tiếp là Liên hiệp Anh, Ireland và Malta (64,4 triệu USD), Pháp và vùng Maghreb (45,9 triệu USD).

Đánh giá chuyên môn

Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, Alice ở xứ sở thần tiên nhận được 51% lượng đồng thuận dựa theo 279 bài đánh giá, với điểm trung bình là 5,8/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí rằng, "Alice của Tim Burton đã hy sinh tính mạch lạc trong cốt chuyện của cuốn sách – và gần như toàn bộ trái tim của nó – nhưng [tác phẩm vẫn] là một bữa tiệc hình ảnh không thể phủ nhận". Lượt bình chọn của khán giả trên trang thống kê CinemaScore cho phần phim điểm "A-" trên thang từ A+ đến F.

Nhà phê bình Todd McCarthy của tạp chí Variety đánh giá cao bộ phim khi đã đưa vào những "khoảnh khắc thú vị, dí dỏm và [khiến người xem phải] đắm chìm", nhưng cũng nhận định: "Khi phim tiến triển thì [tác phẩm] cũng trở nên dần bình thường hơn, trong đó trận chiến ở phần cao trào được xây dựng cũng chỉ tương tự như bất kỳ bộ phim bom tấn CGI nào khác trong vài năm qua". Theo Michael Rechtshaffen của tạp chí The Hollywood Reporter, Tim Burton đã "mang đến một dàn diễn viên vô cùng hóm hỉnh và xuất sắc, [...] đạt được các mốc thỏa mãn về mặt cảm xúc", đồng thời khen ngợi phần hình ảnh CGI: "Cuối cùng, chính khung cảnh choáng ngợp đã giúp cho cuộc phiêu lưu mới nhất của Alice trở nên thật kỳ diệu, vì công nghệ cuối cùng cũng đã có thể bắt kịp với trí tưởng tượng vô tận của Burton". Owen Gleiberman của Entertainment Weekly thì nhận định: "Tác phẩm Disney 3-D Alice ở xứ sở thần tiên của Burton, được biên kịch bởi chuyên gia nữ quyền Linda Woolverton, lại thực sự là một loại thức uống lạ: âm u, lan tỏa và quanh co, lấy bối cảnh không phải ở xứ sở thần tiên của sự quên lãng mà là ở một thế giới có tên Underland – một phiên bản không có gì vui vẻ của Wonderland." Nhà phê bình Roger Ebert của Chicago Sun-Times đã chấm cho bộ phim ba trên bốn sao và viết trong bài đánh giá của mình rằng: "Sẽ tốt hơn nếu nhìn nhận Alice như một tác phẩm kỳ ảo cho người lớn, đó cũng chính là cách Burton đã xuất xắc diễn đạt tác phẩm trước khi hồi thứ ba vô nghĩa [của phim] chạy trật khỏi đường ray." Việc bộ phim lạm dụng quá nhiều hiệu ứng hình ảnh đã khiến nhà phê bình Stephanie Zacharek của trang Salon phải phàn nàn: "Burton đã chăm chút quá mức đến bài trí bộ phim và thiết kế nhân vật [...]. Nói chung, Alice ở xứ sở thần tiên đã trở thành nồi súp cho các chủ nhân pha chế công nghệ mới và thử nghiệm sáng tạo thay vì là mảnh đất của những giấc mơ". Nhà phê bình Dana Stevens của tờ báo mạng Slate không hài lòng lắm với cách chuyển thể tác phẩm của Carroll thành bộ phim của Tim Burton; bà cho rằng áp lực phải có một bộ phim hoành tráng, đạt lợi nhuận cao đã chi phối mạnh vào khâu biên tập và kịch bản: "Dù bộ phim rất dồi dào tình tiết, thậm chí dư thừa, nhưng tôi vẫn thấy thiếu một thứ. Đó là cái hồn của Alice, là ngôn ngữ của nhân vật chính, và cả những gì Carroll muốn nhắn với thiếu nhi qua bộ truyện Alice ở xứ sở thần tiênAlice ở xứ sở trong gương của mình".

Giải thưởng

Di sản

Sau khi công chiếu, Alice ở xứ sở thần tiên đã thu về khoảng 1,6 tỷ USD doanh thu bán lẻ cho Disney, tính cả doanh số bán băng đĩa và vật phẩm. Sau khi phim công chiếu và đạt thành công lớn, Walt Disney Pictures đưa ra thông báo phát nhiều tựa phim người đóng chuyển thể từ loạt Animated Classics của họ. Ngoại trừ Dumbo: Chú voi biết bay, Lady and the TrampHoa Mộc Lan; Vua sư tử, Tiên hắc ám, Aladdin, Lọ Lem, Cậu bé rừng xanh, Người đẹp và quái vậtChristopher Robin đều đạt kết quả phòng vé khả quan (trong đó, bốn phim sau cùng còn nhận được lời khen ngợi từ giới phê bình). Disney còn thông báo phát triển các tựa phim người đóng chuyển thể của Pinocchio, Fantasia, The Sword in the Stone, The Black Cauldron, Peter Pan, The Little Mermaid, Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Lilo & Stitch, Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà, Bambi, Robin Hood, và Hercules. Hãng phim còn cho phát hành Cruella, một phần phim người đóng ngoại truyện của Một trăm linh một chú chó đốm, và dự định làm các tựa phim người đóng ngoại truyện của Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùnPeter Pan cùng với một phần hậu truyện người đóng của Aladdin.

Walt Disney Theatrical đã bước đầu đám phán với Burton và nhà biên kịch Linda Woolverton để phát triển tác phẩm thành một vở nhạc kịch Broadway. Woolverton là tác giả vở nhạc kịch The Lion King của Disney và còn chấp bút cho các vở kịch tranh giải Tony của Beauty and the Beast, AidaLestat. Burton sẽ là người vẽ các thiết kế tổng thể cho vở nhạc kịch. Woolverton sẽ chuyển thể kịch bản phim của mình lên sân khấu. Chưa có một nhà soạn nhạc hay đội sáng tác nhạc nào được lựa chọn cả. Phần chỉ đạo và biên đạo múa sẽ giao cho Rob Ashford. Vở nhạc kịch dự kiến công diễn ra mắt toàn thế giới ở Luân Đôn.

Phần tiếp theo

Ngày 7 tháng 12 năm 2012, tạp chí Variety thông báo giai đoạn phát triển phần hậu truyện của Alice ở xứ sở thần tiên. Linda Woolverton trở lại viết kịch bản. Ngày 31 tháng 5 năm 2013, James Bobin bắt đầu đàm phán để đạo diễn phần hậu truyện dưới tựa tạm thời là Alice in Wonderland: Into the Looking Glass. Johnny Depp trở lại đóng Thợ làm mũ điên, Mia Wasikowska quay lại đảm nhiệm vai Alice và Helena Bonham Carter trở lại vào vai Nữ hoàng Đỏ. Nhiều diễn viên khác từ tựa phim năm 2010 cũng tái thể hiện những vai diễn của họ trong phần hậu truyện. Ngày 22 tháng 11 năm 2013, có nguồn tin cho hay phần hậu truyện sẽ công chiếu vào ngày 27 tháng 5 năm 2016 và Bobin sẽ nắm quyến chỉ đạo bộ phim. Rhys Ifans và Sacha Baron Cohen là những diễn viên mới góp mặt trong phần phim này. Ngày 21 tháng 1 năm 2014, tựa phim được tái đặt là Alice in Wonderland: Through the Looking Glass. Sau đấy tựa phim một lần nữa bị đổi thành Alice Through the Looking Glass.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Alice ở xứ sở thần tiên_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Alice in Wonderland_**) là một bộ phim điện ảnh kỳ ảo đen tối của Mỹ được công chiếu năm 2010. Bộ phim do Tim Burton
Ấn bản 1865, tiếng Anh **_Cuộc phiêu lưu của Alice vào Xứ Sở Thần Tiên_** (tiếng Anh: Alice's Adventures in Wonderland) là cuốn tiểu thuyết dành cho thiếu nhi của tác giả người Anh **Charles
**_Ngày xửa ngày xưa ở Xứ sở thần tiên_** (tiếng Anh: **_Once Upon a Time in Wonderland_**) là một bộ phim truyền hình cổ tích của Mỹ, sáng lập bởi Edward Kitsis, Adam Horowitz, Zack
**_Người đẹp và quái vật_** (tựa gốc ) là một phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo lãng mạn của Mỹ năm 2017 được đạo diễn bởi Bill Condon với phần kịch bản phim do
**_Christopher Robin_** là phim điện ảnh hài kỳ ảo của Mỹ năm 2018 do Marc Forster đạo diễn và Alex Ross Perry, Tom McCarthy cùng Allison Schroeder viết kịch bản dựa theo cốt truyện gốc
**_Lạc vào xứ Oz vĩ đại và quyền năng_** (tựa tiếng Anh: **_Oz the Great and Powerful_**) là một bộ phim phiêu lưu hài hước của Hoa Kỳ sản xuất năm 2013, đạo diễn bởi
**_Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 1_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Deathly Hallows – Part 1_**) là một phim điện ảnh kỳ ảo năm 2010 do David Yates
**_Mê cung địa thần_** (; ) là một bộ phim điện ảnh kinh dị kỳ ảo đen tối công chiếu năm 2006 do Guillermo del Toro làm đạo diễn kiêm viết kịch bản và đồng
**_Người đẹp và quái vật_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Beauty and the Beast_**; còn có tựa Việt khác là **_Người đẹp và quái thú_**) là phim điện ảnh hoạt hình mang yếu tố nhạc kịch
**Almost Alice** là album tuyển tập các bài hát được lấy cảm hứng từ phim _Alice ở Xứ Sở Thần Tiên_. Album gồm các bài hát của nhiều nghệ sĩ khác nhau. Album được phát
right Đây là **danh sách phim sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios**, một hãng phim hoạt hình của Hoa Kỳ có trụ sở tại Burbank, California, và trước đây được biết đến với các
**_Ngày xửa ngày xưa_** (tiếng Anh: **_Once Upon a Time_**) là một bộ phim truyền hình cổ tích của Mỹ, phát sóng chính thức trên ABC. Loạt phim được tạo ra bởi hai tác giả
**Anne Jacqueline Hathaway** (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1982) là một nữ diễn viên người Mỹ. Sau khi đảm nhận một vài vai diễn nhỏ trên sân khấu, cô bắt đầu xuất hiện trên
**Walt Disney Animation Studios** (trước đây được biết đến với tên gọi **Walt Disney Feature Animation**, **Walt Disney Productions** và **Disney Brothers Cartoon Studio**), là một xưởng sản xuất phim hoạt hình của Hoa Kỳ
**Công ty Walt Disney** () (), hay thường được biết đến với tên **Disney** ( ), là tập đoàn giải trí và truyền thông đa phương tiện lớn nhất thế giới. Được thành lập ngày
**_Câu chuyện đồ chơi 3_** (tiếng Anh: **_Toy Story 3_**) là phim hoạt hình máy tính 3-D của Mỹ phát hành năm 2010. Đây là phần thứ ba của loạt phim _Câu chuyện đồ chơi_.
**Giải Oscar lần thứ 83** được tổ chức bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences - AMPAS) nhằm vinh danh những phim xuất sắc
**Walt Disney Studios Motion Pictures** là một công ty phát hành phim của Mỹ trực thuộc The Walt Disney Company. Tuy nhiên, đã có sự bất đồng về giá trị doanh thu với series phim
**_Walt Disney Pictures_**, còn được gọi là **Disney Live Action**, và _Cướp biển vùng Caribe_ là loạt phim thành công nhất của hãng, với năm phần phim thu về tổng doanh thu phòng vé trên
**_Gulliver du ký_** là một bộ phim hài phiêu lưu giả tưởng của Mỹ năm 2010 do Rob Letterman đạo diễn và đây chính là tác phẩm đầu tay của ông, và được sản xuất
là một nhân vật hư cấu và nhân vật chính trong bộ manga _Fairy Tail_ do Mashima Hiro sáng tác. Lần đầu xuất hiện trong chương một của _Fairy Tail_: (ban đầu do ấn phẩm
**_Disney Princess_** là một thương hiệu truyền thông sở hữu bởi Công ty Walt Disney, do chủ tịch của Disney Consumer Products, Andy Mooney sáng tạo ra vào cuối những năm 1990. Thương hiệu này
**Mary Louise** "**Meryl**" **Streep** (sinh ngày 22 tháng 6 năm 1949) là một nữ diễn viên và nhà nhân đạo người Mỹ. Được giới truyền thông gọi là "nữ diễn viên xuất sắc nhất của
nhỏ|250x250px|Hình ảnh miêu tả các bé gái mặc [[Nội y phụ nữ|nội y theo phong cách manga. Nghệ thuật _lolicon_ thường pha trộn các yếu tố trẻ con và khiêu dâm nhẹ nhàng.]] Trong văn
**Scarlett Ingrid Johansson** (; sinh ngày 22 tháng 11 năm 1984) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ. Cô là nữ diễn viên được trả thù lao cao nhất thế giới kể
**_1989_** là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành vào ngày 27 tháng 10
là một nhân vật hư cấu từ bộ manga _Fairy Tail_ của Mashima Hiro. Trong lần đầu xuất hiện ở chương 1 của _Fairy Tail_, (_Weekly Shōnen Magazine_ xuất bản lần đầu vào ngày 2
**Mia Wasikowska** ( ; sinh ngày 25 tháng 10 năm 1989) là một nữ diễn viên người Úc. Cô ra mắt màn ảnh trong bộ phim truyền hình Úc _All Saints_ vào năm 2004, kế
**Avril Ramona Lavigne** (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1984), thường được biết đến với tên gọi **Avril Lavigne**, là một nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Canada. Cô sinh ra tại Belleville, Ontario nhưng tuổi
**_Goodbye Lullaby_** là album phòng thu thứ tư của ca sĩ người Canada Avril Lavigne, phát hành ngày 2 tháng 3 năm 2011, và cũng là sản phẩm cuối cùng của cô với RCA Records.
**Elizabeth Woolridge Grant** (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1985), thường được biết đến với nghệ danh **Lana Del Rey**, là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ. Lana Del Rey bắt
**Jason Kouchak** là một nghệ sĩ piano, nhà soạn nhạc và ca sĩ kiêm sáng tác người Pháp. ## Đầu đời Jason Mariano Kouchak sinh tại Lyon, Pháp. Ông học tại trường Westminster và học
**Katheryn Elizabeth Hudson** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh **Katy Perry**, là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhân vật truyền hình người Mỹ.
**Margaret Grace Denig** (sinh 21 tháng 9 năm 1983), được biết tới với nghệ danh **Maggie Grace**, là một nữ diễn viên người Mỹ. Grace được biết tới với vai Kim trong _Taken_ (2008), _Taken
**Phim về động vật** là thể loại phim có liên quan đến chủ đề, đề tài về các loài động vật, trong đó, các loài động vật có thể là nhân vật chính hoặc không.
**_Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên_** () là một phim truyền hình do Michael Landon tổng đạo diễn, được xuất phẩm trong giai đoạn 1974—1983 trên sóng NBC. ## Lịch sử Thập niên 1970, hoàn
**Khaled Hosseini** ( [ˈxɒled hoˈsejni] ; sinh ngày 4 tháng 3 năm 1965), là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Mỹ gốc Afghanistan. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
**Steven Allan Spielberg** (; sinh ngày 18 tháng 12 năm 1946) là một nam nhà làm phim người Mỹ gốc Do Thái. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình trong kỷ nguyên New Hollywood và
**_Những người bạn_** (tựa gốc tiếng Anh: _Friends_) là một loạt phim truyền hình hài kịch tình huống Mỹ do David Crane và Marta Kauffman sáng lập, công chiếu lần đầu tiên trên kênh National
**Simon & Garfunkel** là đôi song ca người Mỹ gồm hai thành viên: ca sĩ-nhạc sĩ Paul Simon và ca sĩ Art Garfunkel. Hai người cùng thành lập nhóm nhạc có tên Tom & Jerry
**_Cuộc đời của Pi_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Life of Pi_**) là một bộ phim phiêu lưu-chính kịch năm 2012 do Lý An đạo diễn và sản xuất và David Magee viết kịch bản. Dựa
**John Christopher Depp II** (sinh ngày 9 tháng 6 năm 1963) là một nam diễn viên, nhà sản xuất điện ảnh và nhạc sĩ người Mỹ. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông là người
**_Ready Player One: Đấu trường ảo_** (tiếng Anh: **_Ready Player One_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại hành động – phiêu lưu – khoa học viễn tưởng – chính kịch ra
**Diệp Vấn 2** (còn gọi là **Ip Man 2: Legend of the Grandmaster**) là một bộ phim điện ảnh Hồng Kông công chiếu năm 2010 kể về cuộc đời của Diệp Vấn, võ sư của
**Angelina Jolie** (; tên khai sinh **Angelina Jolie Voight**; Jolie là em gái của diễn viên James Haven cũng như là cháu gái của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Chip Taylor và nhà địa chất
**Heavy metal** (hay viết tắt là **metal**) là thể loại nhạc rock phát triển vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, chủ yếu ở hai thị trường Vương quốc Liên hiệp Anh
, thường được gọi đơn giản là **Code Geass** là một bộ anime dài tập do hãng Sunrise tạo ra, đạo diễn Taniguchi Gorō và kịch bản của Ōkouchi Ichirō, với thiết kế nhân vật
**Halle Berry** (; sinh ngày 14 tháng 8 năm 1966 là nữ diễn viên người Mỹ, cựu người mẫu thời trang và nữ hoàng sắc đẹp. Berry đã đoạt một giải Emmy, giải Quả cầu
thumb **Alice Ann Munro** (nhũ danh **Laidlaw**; 10 tháng 7 năm 1931 – 13 tháng 5 năm 2024), là nhà văn nữ người Canada. Bà đã đoạt Giải Nobel Văn học năm 2013, Giải Man