✨Công ty Walt Disney

Công ty Walt Disney

Công ty Walt Disney () (), hay thường được biết đến với tên Disney ( ), là tập đoàn giải trí và truyền thông đa phương tiện lớn nhất thế giới. Được thành lập ngày 16 tháng 10 năm 1923 bởi anh em Walt và Roy O. Disney, Disney từ một xưởng ảnh động nhỏ đã trở thành một studio lớn nhất Hollywood sở hữu 11 lĩnh vực giải trí và 7 hệ thống mạng TV bao gồm ABC. Tập đoàn Disney có trụ sở chính tên là Walt Disney Studios (Burbank) ở California, Hoa Kỳ.

Quá trình hình thành

1923–1928: Kỷ nguyên phim câm

Đầu năm 1923, Walt Disney làm phim ngắn có tựa đề Alice's Wonderland, có sự tham gia của diễn viên nhí Virginia Davis tương tác với các nhân vật hoạt hình. Sau lần hãng phim trước đó của ông phá sản vào năm 1923, Laugh-O-Gram Films, Disney chuyển Hollywood hợp tác với anh trai, Roy O. Disney. Nhà phát hành phim Margaret J. Winkler của Hãng M.J. Winkler đã liên lạc với ông để lên kế hoạch phân bổ toàn bộ loạt phim Alice Comedies để mua với giá $1,500 mỗi cuốn phim của Disney như một đối tác sản xuất. Walt và Roy O.Disney đã thành lập Hãng phim hoạt hình của anh em nhà Disney vào cùng năm. Và tiếp theo đó đã có nhiều bộ phim ra đời.

Tháng 1 năm 1926, cùng với việc hoàn thành xưởng phim Disney trên đường Hyperion, "Hãng phim hoạt hình của anh em nhà Disney" đã được đổi tên thành Walt Disney Studio.

Sau khi kết thúc của chùm phim Alice, Walt Disney đã phát triển một series hoạt hình mới với nhân vật chính đầu tiên của ông, Oswald chú thỏ may mắn.

1928–1934: Chuột Mickey và Silly Symphonies

Năm 1928, nhằm khôi phục trở lại sau khi để mất Oswald chú thỏ may mắn, Disney đã nảy ra một ý tưởng mới về một chú chuột tên là Mortimer khi ông đang trên chuyến tàu hướng về California phác thảo một vài nét vẽ đơn giản. Chú chuột sau đó được đổi tên thành Mickey (bởi vợ của ông, bà Lillian không thích âm thanh khi đọc "Mortimer Mouse") và trở thành ngôi sao chính trong rất nhiều các bộ phim của Disney. Ub Iwerks là người đã cải thiện thiết kế ban đầu của chú chuột. Đây là phim âm thanh đầu tiên của Disney, nhưng là phim thứ ba được xây dựng, sau Plane CrazyThe Gallopin' Gaucho. Plane CrazyThe Galloping Gaucho sau đó cũng được trang bị thêm các bản nhạc đồng bộ trước khi tái phát hành thành công vào năm 1929. Tháng 9 năm 1929, quản lý nhà hát Harry Woodin đã đề nghị cấp phép hoạt động cho Câu lạc bộ Disney mà Walt đã phê duyệt. Tháng 11, các bản mẫu truyện tranh về chuột Mickey đã được gửi tới King Features, một nghiệp đoàn in sở hữu bởi The Hearst Corporation. Ngày 30 tháng 12, King Features đã ký kết hợp đồng với tờ báo đầu tiên của họ, New York Mirror, để xuất bản các tập truyện tranh này dưới sự cho phép của Walt Disney.

Trước đó, vào ngày 16 tháng 12 năm 1929, "xưởng phim hợp tác" Walt Disney Studios đã được tổ chức lại thành một công ty với tên mới là Walt Disney Productions, Limited. Công ty bao gồm một bộ phận bán hàng, Walt Disney Enterprises, hai công ty con, Disney Film Recording Company, LimitedLiled Realty và một Công ty đầu tư nắm giữ và quản lý địa ốc. Walt và vợ năm giữ 60% (tương đương 6.000 cổ phiếu), Roy nắm giữ 40% còn lại (tương đương 4.00 cổ phiếu) của công ty. Sự phổ biến của series chuột Mickey cho phép Disney lên kế hoạch sản xuất các bộ phim hoạt hình dài (animated feature films) đầu tiên của mình. Phim được phát hành bởi công ty RKO Radio Pictures, vốn đảm nhận phát hành các sản phẩm của Disney từ tháng 7 năm 1937 sau khi United Artists đã nỗ lực giành lấy bản quyền truyền hình các bộ phim ngắn của Disney trong tương lai.

Sử dụng lợi nhuận từ Nàng Bạch tuyết và bảy chú lùn, Disney đã bỏ vốn xây dựng một xưởng phim phức hợp mới rộng 51 mẫu Anh (tương đương 210,000 mét vuông) đặt tại Burbank, California. Xưởng phim Walt Disney, ngày nay là trụ sở chính của hãng Disney, chính thức mở cửa hoạt động kinh doanh vào cuối năm 1939. Ngày 2 tháng 4 năm 1940, Walt Disney Productions đã cho phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.

Xưởng phim tiếp tục sản xuất các bộ phim hoạt hình ngắn và dài như Pinocchio (1940), Fantasia (1940), Dumbo (1941), Bambi (1942), Saludos Amigos (1942)... Những phim như Victory Through Air Power Education for Death được sản xuất và công chiếu với mục đích khuyến khích và tăng cường hỗ trợ cộng đồng cho chiến tranh. Ngay cả những nhân vật của Disney cũng tham gia dự án này, chẳng hạn như vịt Donald đã xuất hiện trong một số phim ngắn tuyên truyền hài hước, trong số đó có cả phim thắng giải Oscar hạng mục phim ngắn xuất sắc nhất năm 1943 Der Fuehrer's Face.

1946–1954: Hậu chiến tranh và truyền hình

Với lượng nhân viên giới hạn và nguồn vốn hoạt động hạn chế trong suốt và sau chiến tranh, các bộ phim dài của Disney trong những năm 40 chủ yếu là tập hợp các phim ngắn hay còn gọi là "phim đóng gói", ví dụ như The Three Caballeros (1944) và Melody Time (1948). Tuy nhiên chúng chỉ mang lại doanh thu nghèo nàn cho nhà sản xuất. Cùng thời điểm đó, hãng phim bắt đầu sản xuất phim hành động sống và phim tài liệu. Các bộ phim người đóng như Song of the South (1946) và So Dear to My Heart (1948) vẫn được xen lẫn với một số đoạn hoạt hình. Còn series phim tài liệu True-Life Adventures, bao gồm các phim như Seal Island (1948) và The Vanishing Prairie (1954) trở nên phổ biến và giành được nhiều giải thưởng điện ảnh.

Việc phát hành bộ phim Cô bé Lọ Lem vào năm 1950 đã chứng minh rằng phim hoạt hình cũng có thể thành công trên thị trường. Các bản phát hành hoạt hình lớn khác của Disney cùng thời điểm này là Alice ở xứ sở thần tiên (1951), Peter Pan (1953) (cả hai đều được sản xuất trước chiến tranh) và bộ phim dài người đóng trọn vẹn (tức là không sử dụng thêm bất kì nhân vật hoạt hình nào) đầu tiên của Disney, Treasure Island (1950). Tiếp sau Treasure Island, Disney tiếp tục sản xuất các bộ phim hành động sống tương tự khác gồm The Story of Robin Hood and His Merrie Men (1952), The Sword and the Rose (1953), và Hai vạn dặm dưới đáy biển (1954).

Năm 1953, Disney kết thúc hợp đồng với nhà phát hành RKO và tự thành lập một đơn vị phát hành riêng của mình, Buena Vista Distribution Company.

Tháng 12 năm 1950, Walt Disney Productions và Công ty Coca-Cola đã hợp tác với nhau trong lần đầu tiên Disney dấn thân vào lĩnh vực truyền hình. Sản phẩm truyền hình đặc biệt đầu tiên của hãng, One Hour in Wonderland, đã được phát sóng trên mạng lưới truyền thông NBC vào đúng dịp lễ Giáng sinh năm 1950 Sau đó, tháng 11 năm 1954, hệ thống ABC đã khởi động Disneyland, series truyền hình thường xuyên đầu tiên của Disney. Đây là một trong những series được phát sóng trên khung giờ vàng dài nhất mọi thời đại. Sự thành công của Disneyland cho phép hãng Disney có một nền tảng để giới thiệu những dự án mới của họ. ABC đã trở thành đối tác của Disney trong tài chính và trong việc phát triển những dự án liên doanh tiếp theo. Đó là giai đoạn đầu của một mối quan hệ doanh nghiệp dài mà, mặc dù không ai có thể dự đoán trước vào thời điểm đó, sẽ lên đến đỉnh cao bốn thập kỷ sau đó thông qua việc mua lại mạng lưới ABC của Disney cùng toàn bộ các trạm thuộc quyền sở hữu và điều hành, truyền hình cáp và xuất bản của công ty này.

1955–1965: Disneyland

nhỏ|Walt Disney mở bản kế hoạch Disneyland để các quan chức [[Orange County xem vào tháng 12 năm 1954. Bức ảnh được chụp tại Disney Studios ở Burbank.]] Năm 1954, Disney đã sử dụng series Disneyland để cho ra mắt cái sau này sẽ trở thành công viên giải trí Disneyland, một ý tưởng được hình thành từ mong muốn của ông về một địa điểm nơi cha mẹ và những đứa trẻ có thể cùng nhau vui vẻ. Ban đầu theo như kế hoạch, công viên này được mang tên là Disneylandia, nhưng sau đó theo lời khuyên của công ty ABC, Disney đã đổi tên dự án thành Disneyland hai năm sau đó vào thời điểm công trình chính thức được khởi công. Ngày 18 tháng 7 năm 1955, công viên giải trí Disneyland chính thức được khai trương. Ước tính tổng chi phí của công trình vào khoảng 17 triệu USD. Mặc dù thành công như vậy, Walt Disney Productions cũng chỉ đầu tư ít ỏi vào truyền hình những năm 1960, ngoại trừ những loạt tuyển tập kéo dài mà sau này được biết đến với tên gọi The Wonderful World of Disney Công nghệ này hiện nay được sử dụng hầu hết trong máy photocopy và máy in LED hoặc LASER. Trong khi đó, các bộ phim hành động sống của Disney được dàn trải ở nhiều thể loại, bao gồm phim lịch sử giả tưởng (Johnny Tremain, 1957), phim hài hiện đại (The Shaggy Dog, 1959) và phim chuyển thể từ các cuốn sách cho trẻ em (Pollyanna, 1960).

Tác phẩm thành công nhất của Walt Disney Production trong thập niên 1960 là một phim hành động sống / hoạt hình âm nhạc dựa trên cuốn loạt sách cùng tên của nữ nhà văn P. L. Travers, Mary Poppins. Đây là một trong số những bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại (102,272,727 USD vào thời điểm năm 1964) và giành được năm giải thưởng của Viện Hàn lâm, bao gồm các hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, ca khúc gốc trong phim hay nhất, soạn nhạc xuất sắc nhất, biên tập phim xuất sắc nhất và hiệu ứng hình ảnh đẹp mắt nhất.

Việc thiết kế công viên chủ đề và đội ngũ kiến trúc đã trở thành một phần không thể thiếu đối với hoạt động của công ty đến mức hãng Disney đã mua lại bộ phận này vào ngày 5 tháng 2 năm 1965 cùng với tên gọi WED Enterprises.

1966–1971: Walt và Roy Disney qua đời – Walt Disney World khai trương

Ngày 15 tháng 12 năm 1966, Walt Disney qua đời bởi các biến chứng liên quan đến ung thư phổi.

Năm 1967, hai bộ phim cuối cùng do đích thân Walt Disney chủ động giám sát đã được phát hành, phim hoạt hình dài The Jungle Book Cuối thập kỉ 1960, xưởng phim lần lượt cho ra mắt hàng loạt các bộ phim hài, điển hình như The Love Bug (doanh thu cao nhất năm 1969) các series hoạt hình trong kỉ nguyên đầu của The Wonderful World of Disney.

Là người đứng đầu của hãng, Miller đã cố gắng sản xuất các bộ phim hướng tới lứa tuổi thanh thiếu niên, những người thường xuyên mua vé xem phim của Disney. Lấy cảm hứng từ sự phổ biến của Star Wars, hãng Disney đã sản xuất bộ phim phiêu lưu khoa học – viễn tưởng The Black Hole vào năm 1979 với chi phí khoảng 20 triệu USD. Tuy nhiên bộ phim không thành công như mong đợi và bị mất hút trong sự thức dậy của Star Wars. The Black Hole là sản phẩm đầu tiên của Disney được dán nhãn PG tại Hoa Kỳ.

Việc phát hành vào năm 1983 phim ngắn Mickey's Christmas Carol đã bắt đầu một chuỗi các bộ phim thành công của Disney, có thể kể đến như Never Cry WolfSomething Wicked This Way Comes, Ngày 18 tháng 4 năm 1983, Disney Channel ra mắt như một kênh đăng ký trên hệ thống truyền hình cáp quốc gia. Disney Channel bao gồm một thư viện phong phú các bộ phim cổ điển, phim truyền hình, các chương trình ban đầu và dịch vụ bên thứ ba dành cho gia đình của hãng.

Walt Disney World nhận được nhiều sự quan tâm của công ty trong suốt những năm 1970 và 1980. Năm 1978, ban quản trị của công ty đã công bố kế hoạch xây dựng công viên giải trí Walt Disney World thứ hai. Với tên gọi EPCOT Center (Experimental Prototype Community of Tomorrow Center), công viên chủ đề mới này được lấy cảm hứng từ giấc mơ của Walt Disney về một mô hình thành phố của tương lai. EPCOT Center chính thức mở cửa vào ngày 1 tháng 10 năm 1982. Công viên được xây dựng như một "Hội chợ thế giới vĩnh cửu", hoàn thiện với các vật triển lãm được tài trợ bởi các công ty Mỹ và các gian hàng dựa trên nền văn hóa của nhiều quốc gia khác nhau. Tại Nhật Bản, công ty Địa ốc Phương Đông đã hợp tác với công ty Walt Disney Productions xây dựng công viên giải trí Disney đầu tiên nằm ngoài địa phận Hoa Kỳ, đó là Tokyo Disneyland (東京ディズニーランド Tōkyō Dizunīrando?), mở cửa vào năm 1983. Trong đầu thập niên 80, các công viên giải trí đã tạo ra 70% doanh thu của Disney. – đã bỏ ra 193 triệu USD đầu tư phim cho Disney.Tháng 1 năm 1987, Silver Screen III bắt đầu tài trợ vốn cho Disney với hơn 300 triệu USD tăng thêm và sau đó đến lượt Silver Screen IV cũng chính thức đầu tư vào hãng phim.

Ngày 6 tháng 2 năm 1986, Walt Disney Productions đổi tên thành Công ty Walt Disney.

Khởi đầu với phim hoạt hình đọat giải Oscar Who Framed Roger Rabbit năm 1988, xưởng phim hoạt hình hàng đầu của công ty Walt Disney bắt đầu hưởng thành quả của một chuỗi 10 bộ phim thành công cả về thương mại lẫn phê bình từ cuối thập niên 80 và kéo dài đến cuối thập niên 90. Những bộ phim này đã đưa tên tuổi của Disney quay trở lại làng điện ảnh, mang đến một luồng sinh khí mới cho nghệ thuật hoạt hình chiếu rạp của hãng sau một loạt các phim thất bại cả về doanh thu và chuyên môn kể từ đầu thập niên 1970, đánh dấu thời kì Phục hưng của Disney. Đó là những tác phẩm Nàng tiên cá (1989), The Rescuers Down Under (1990), Người đẹp và quái thú (1991), Aladdin (1992), Vua sư tử (1995), Pocahontas (1995), Thằng gù nhà thờ Đức Bà (1996), Hercules (1997), Mộc Lan (1998) và Tarzan (1999). Bên cạnh đó, công ty cũng xâm nhập thành công vào lĩnh vực hoạt hình truyền hình với nhiều series hoạt hình được đầu tư mạnh mẽ và được đánh giá cao như Cuộc phiêu lưu của gấu Gummi, Duck TalesGargoyles. Với những gì đã đạt được trong thời kì này, Disney đã trở thành công ty thu lợi số một từ các phòng vé kể từ năm 1988 và lợi nhuận tăng trung bình 20% mỗi năm. gồm 38 triệu USD tiền mặt và 3 triệu cổ phiếu có quyền mua trị giá 100 triệu USD vào thời điểm đó. Thời kỳ của Ovitz cũng gây ra một vụ kiện chứng khoán phái sinh kéo dài đến tháng 6 năm 2006, tức là gần 10 năm. Thẩm phán William B. Chandler, III của Tòa án Công lý bang Delaware, mặc dù đã miêu tả hành vi của Eisner là đi "quá xa so với những gì các cổ đông mong đợi và nhu cầu của những người được giao phó trong khi đang giữ một vị trí tín nhiệm..." đã ủng hộ Eisner cũng như những người còn lại trong ban lãnh đạo bởi họ không hề vi phạm pháp lý. Tàu Disney Wonder đậu tại đảo Castaway, một trong bốn con tàu thuộc sở hữu của Disney Cruise Line (bên cạnh các con tàu Disney Magic, Disney Dream và Disney Fantasy)

Trong khi đó trường hợp của Katzenberg đã kéo theo một bản hợp đồng bao gồm một phần doanh thu của phim vĩnh viễn từ các thị trường phụ trợ. Katzenberg đã yêu cầu 100 triệu USD để giải quyết nhưng Eisner cảm thấy đòi hỏi ban đầu về khoản bồi thường trị giá nửa tỷ đô là quá nhiều. Tuy nhiên sau đó những điều khoản phụ trợ đã được tìm thấy. Luật sư của Disney đã cố gắng phản ánh tình trạng khó khăn qua đó đã bộc lộ nhiều vấn đề của công ty. Trong khi không bên nào tiết lộ số tiền phải bồi thường, người ta đã ước tính con số đó vào khoảng 200 triệu USD.

Disney mất 10,4 triệu USD trong một vụ kiện vào tháng 9 năm 1997 với Marsu B.V. do công ty đã không hoàn thành 13 tập phim của chương trình hoạt hình Marsupilami theo như hợp đồng đã được ký kết. Thay vào đó, Disney nhận thấy Hot properties nên đáng được quan tâm hơn.

Disney tiếp quản câu lạc bộ bóng chày Anaheim Angels vào năm 1996 và mua phần lớn cổ phiếu của đội vào năm 1998. Cũng trong năm ấy, công ty đã mua lại Starwave – một công ty phần mềm và Internet do đồng sáng lập tập đoàn Microsoft Paul Allen thành lập năm 1993– cùng 43% cổ phiếu của Infoseek, chính thức đặt chân vào lĩnh vực Internet. Năm 1999, Disney mua số cổ phiếu còn lại của Infoseek và khởi động cổng thông tin điện tử Go Network vào tháng 1. Công ty cũng khai trương tuyến du ngoạn bằng tàu thủy Disney Cruise Line bằng lễ đặt tên cho con tàu Disney Magic và chị em của nó, con tàu Disney Wonder. với lời cáo buộc chính sách quản lý vi mô của Eisner, cho rằng ông đã bỏ rơi ABC television network, rụt rè trong kinh doanh hệ thống công viên giải trí, biến công ty Walt Disney thành một "kẻ tham lam và thiếu hồn", đồng thời từ chối việc đưa ra một kế hoạch thành công rõ ràng và một chuỗi thất bại của các bộ phim chiếu rạp kể từ năm 2000.

Ngày 15 tháng 5 năm 2003, Disney bán cổ phiếu của đội bóng chày Anaheim Angels cho Arte Moreno. Họ mua lại bản quyền của The Muppets và Bear in the Big Blue House từ công ty chủ quản The Jim Henson Company vào ngày 17 tháng 2 năm 2004. Cả hai thương hiệu trên đều được đặt dưới quyền của Muppets Holding Company, LLC, một nhánh của Disney Consumer Products.

Năm 2004, Pixar Animation Studios bắt đầu tìm kiếm một nhà phân phối mới sau khi hợp đồng 12 năm của họ với Disney kết thúc. Bản hợp đồng không được gia hạn bởi mối quan hệ căng thẳng giữa đôi bên xung quanh vấn đề quản lý và tiền bạc của Eisner. Cũng trong năm này, Comcast Corporation – công ty truyền thông và truyền cáp lớn nhất thế giới tính theo doanh thu, hiện tại là chủ sở hữu của NBCUniversal – đã đơn phương đưa ra một gói thầu trị giá 54 tỉ USD nhằm thâu tóm toàn bộ công ty Disney. Thương vụ đã không xảy ra.

Với những rắc rối đã xảy ra, những khó khăn và sự không hài lòng đến từ một vài thành viên ban quản trị và gần đây nhất là sự thất bại của hai bộ phim được đầu tư công phu, Michael Eisner đã buộc phải rời khỏi ghế chủ tịch HĐQT của mình.

Năm 2005, Disney bán đội hockey Mighty Ducks of Anaheim cho Henry and Susan Samueli.

2005–2020: Kỉ nguyên Iger và sự mở rộng

Bob Iger, cựu chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của Disney vào năm 2013. Ngày 8 tháng 7 năm 2005, cháu trai của Walt Disney, Roy E. Disney trở lại công ty Walt Disney trong vai trò cố vấn và cương vị "Giám đốc không qua bầu cử, Danh dự". Cùng năm, Walt Disney Parks and Resorts tổ chức lễ kỉ niệm 50 năm khai trương công viên Disneyland vào ngày 17 tháng 7 và sau đó mở cửa Hong Kong Disneyland (香港迪士尼樂園) vào ngày 12 tháng 9. Walt Disney Feature Animation phát hành bộ phim Chicken Little lần đầu tiên sử dụng công nghệ 3D trong sản xuất. Ngày 1 tháng 10, Bob Iger thay thế Michael Eisner trên cương vị chủ tịch và CEO. Đồng sáng lập Miramax Bob Weinstein và Harvey Weinstein cũng đã tách khỏi công ty để thành lập công ty riêng của họ, The Weinstein Company. Ngày 25 tháng 7 năm 2005, Disney thông báo rằng họ sẽ đóng cửa DisneyToon Studios Australia vào tháng 10 năm 2006, sau hơn 17 năm tồn tại.

Năm 2006, Disney đã giành lại được Oswald chú thỏ may mắn, nhân vật hoạt hình đầu tiên của Disney. Nhận thấy mối quan hệ với Pixar đang rạn nứt, Chủ tịch và CEO Robert Iger bắt đầu đàm phán với ban lãnh đạo của Pixar, Steve Jobs và Ed Catmull, về khả năng hợp nhất với Disney. Ngày 23 tháng 1 năm 2006, tin tức báo rằng Disney sẽ mua lại toàn bộ cổ phiếu của Pixar trị giá 7,4 tỉ USD. Bản hợp đồng chính thức hoàn thành vào ngày 5 tháng 5. Một trong những kết quả đáng chú ý của thương vụ này là việc Steve Jobs, CEO và người nắm giữ 50,1% cổ phiếu của Pixar, đã trở thành cổ đông tư nhân lớn nhất của Disney với 7% tổng số và tư cách một thành viên trong lãnh đạo của công ty. Ed Catmull tiếp quản Pixar Animation Studios với chức danh chủ tịch. Nguyên phó chủ tịch điều hành của Pixar, John Lasseter, trở thành CEO đồng thời của Walt Disney Animation Studios, một bộ phận của DisneyToon Studios, và Pixar Animation Studios, kiêm vai trò Trưởng Cố vấn Sáng tạo tại Walt Disney Imagineering. Bản hợp đồng được hoàn thành vào ngày 31 tháng 12 năm 2009, theo đó Disney nắm trong tay toàn quyền sở hữu công ty. Disney khẳng định rằng việc Disney giành được hãng Marvel sẽ không ảnh hưởng tới các sản phẩm của hãng, hay bất kì sự thay đổi nào trong bản chất tự nhiên của các nhân vật Marvel.

Vào ngày 18 tháng 10 năm 2009, chủ tịch của Disney Channel Rich Ross, được thuê bởi Iger, đã thay thế Dick Cook làm chủ tịch của Walt Disney Studios và kể từ tháng 11, ông đã bắt đầu tổ chức lại công ty tập trung nhiều hơn vào các sản phẩm dành cho gia đình. Sau đó đến tháng 1 năm 2010, Disney quyết định đóng cửa Miramax sau khi đã tinh giản biên chế Touchstone, nhưng một tháng sau, họ đã thay thế bằng việc bắt đầu bán lại thương hiệu Miramax cùng với thư viện 700 tiêu đề phim cho Filmyard Holdings. Ngày 12 tháng 3 năm, ImageMovers Digital – công ty của Robert Zemeckis, đạo diễn của Who Framed Roger Rabbit – mà Disney mua lại vào năm 2007, bị đóng cửa. Tháng 4 năm 2010, Lyric Street, nhãn hiệu nhạc đồng quê của Disney tại Nashville, cũng bị đóng cửa. Tháng 5 năm 2010, công ty đã bán thương hiệu Power Rangers, cùng thư viện 700 tiêu đề phim, trả lại Haim Saban, cha đẻ của chương trình. Tháng 6, công ty hủy dự án phim Killing Rommel của Jerry Bruckheimer. Sang tháng 1 năm 2011, Disney Interactive Studios bị cắt giảm. Tháng 11, hai trụ sở của ABC được bán cho SJL Broadcasting.

Cùng với việc phát hành thành công bộ phim hoạt hình Nàng công chúa tóc mây vào năm 2010, một số tờ báo đưa lời của Ed Catmull nói rằng thể loại phim "công chúa" vẫn còn đang gián đoạn cho tới khi "ai đó có một sự đảm trách tươi mới với thể loại này... song chúng tôi không có bất kì bộ phim nhạc kịch hay câu chuyện thần tiên nào khác để sắp xếp [phát hành]..." Ông giải thích rằng mọi người đang cân nhắc để thoát khỏi "kỉ nguyên công chúa" nhằm đáp ứng nhiều thành phần khán giả cũng như thị hiếu của họ. Tuy nhiên, trên trang Facebook cá nhân, Ed Catmull tuyên bố rằng đó chỉ là một tin đồn.

Tháng 4 năm 2011, Disney khởi công xây dựng Shanghai Disney Resort (上海迪士尼度假区). Tiêu tốn 4,4 tỉ USD để hoàn thành, khu nghỉ mát được dự kiến sẽ mở vào năm 2015. Tháng 8 năm 2011, Bob Iger tuyên bố trong một cuộc gọi hội nghị rằng sau thương vụ thành công của Pixar và Marvel, ông và công ty Walt Disney sẽ "mua hoặc những nhân vật mới, hoặc những doanh nghiệp mới có khả năng tạo ra những nhân vật, những câu chuyện tuyệt vời." Đến đầu tháng 2 năm 2012, Disney hoàn thành việc giành lấy thương hiệu UTV Software Communications, giúp họ mở rộng thị trường tới Ấn Độ cũng như Châu Á.

Ngày 30 tháng 10 năm 2012, Disney công bố một kế hoạch thâu tóm Lucasfilm và bản phát hành Star Wars Episode VII vào năm 2015. Ngày 4 tháng 12 năm 2012, việc sáp nhập Disney-Lucasfilm được chấp thuận bởi Ủy ban thương mại liên bang Hoa Kỳ, cho phép việc mua bán sẽ được hoàn tất mà không cần đối phó với vấn đề chống độc quyền. Ngày 21 tháng 12, thỏa thuận được hoàn tất với giá trị mua lại vào khoảng 4,06 tỉ USD. Lucasfilm trở thành một công ty con nằm hoàn toàn dưới quyền điều hành của Disney.

Ngày 29 tháng 5 năm 2013, Disney sắp xếp lịch phát hành cho 8 bộ phim hoạt hình chưa đặt tên của họ tới năm 2018, trong đó có 4 phim của Disney, 4 phim của Pixar.

Ngày 24 tháng 3 năm 2014, Disney mua lại Maker Studios, một công ty YouTube nổi tiếng với hàng tỉ lượt người xem mỗi năm, với giá 500 triệu USD để quảng cáo hướng tới khán giả người lớn và thanh thiếu niên. Ngày 9 tháng 5 năm 2014, Disney thông báo họ đã đạt được một thỏa thuận với công ty Nhật Bản TV Asahi Corporation nhằm phát hành series hoạt hình Doraemon được lồng tiếng Anh trên kênh Disney XD. Tháng 6 năm 2014, Công ty Walt Disney công bố 11 công ty khởi động nằm trong chiến lược phát triển của công ty.

Vào tháng 8 năm 2014, Công ty Walt Disney nộp ba bằng sáng chế cho việc sử dụng máy bay. Bằng sáng chế bao gồm việc sử dụng phương tiện bay không người lái (UAV) để nâng những con rối trong không khí, nâng cao màn hình lưới cho dự án video nổi và được trang bị với đèn để trình diễn ánh sáng theo một kiểu mới.

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2015, có thông báo rằng Tom Staggs đã được thăng chức lên COO. Vào ngày 4 tháng 4 năm 2016, Disney thông báo rằng Staggs và công ty đã đồng ý chia tay nhau, có hiệu lực từ tháng 5 năm 2016, kết thúc sự nghiệp 26 năm của ông với công ty. Vào tháng 8 năm 2016, Disney đã mua lại 33% cổ phần của BAMTech, một nhà cung cấp phương tiện truyền thông trực tuyến tách ra từ bộ phận truyền thông của Major League Baseball. Công ty đã công bố kế hoạch cuối cùng sẽ sử dụng cơ sở hạ tầng của mình cho dịch vụ hàng đầu ESPN.

Vào tháng 9 năm 2016, Disney đã cân nhắc mua dịch vụ mạng xã hội và tin tức trực tuyến của Mỹ là Twitter, nhưng họ đã bỏ một phần do lo ngại về việc lạm dụng và quấy rối trên dịch vụ này.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 2017, Disney thông báo rằng Iger đã đồng ý gia hạn một năm nhiệm kỳ Giám đốc điều hành của mình đến ngày 2 tháng 7 năm 2019 và đã đồng ý ở lại công ty với tư cách là nhà tư vấn trong ba năm sau khi từ chức. Vào tháng 8 năm 2017, Disney thông báo rằng họ đã thực hiện tùy chọn để tăng cổ phần của mình trong BAMTech lên 75% và sẽ tung ra dịch vụ đăng ký video theo yêu cầu có nội dung giải trí vào năm 2019, sẽ thay thế Netflix với tư cách là chủ sở hữu bản quyền VOD đăng ký của tất cả các bộ phim chiếu rạp của Disney. Vào tháng 11 năm 2017, Lasseter thông báo rằng ông sẽ nghỉ việc 6 tháng tại Pixar và Disney Animation sau khi thừa nhận "sai lầm" trong hành vi của mình với nhân viên trong một bản ghi nhớ gửi nhân viên. Theo nhiều hãng tin khác nhau, Lasseter từng có tiền sử bị cáo buộc có hành vi tình dục sai trái đối với nhân viên.

Vào tháng 11 năm 2017, CNBC đưa tin rằng Disney đã đàm phán để mua lại 20th Century Fox. Các cuộc đàm phán được cho là đã nối lại xung quanh việc Disney mua lại một số tài sản truyền thông quan trọng của Fox. Tin đồn về một thỏa thuận sắp đạt được tiếp tục vào ngày 5 tháng 12 năm 2017, với các báo cáo bổ sung cho thấy rằng mạng lưới thể thao khu vực FSN sẽ được đưa vào công ty mới (tài sản có thể sẽ phù hợp với bộ phận ESPN của Disney). Vào ngày 14 tháng 12, Disney đồng ý mua lại hầu hết tài sản từ 20th Century Fox, bao gồm cả 20th Century Fox, với giá 52,4 tỷ đô la. Việc sáp nhập bao gồm nhiều tài sản giải trí của Fox — bao gồm giải trí quay phim, giải trí trên cáp và các bộ phận vệ tinh phát sóng trực tiếp ở Anh , Châu Âu và Châu Á - nhưng đã loại trừ các bộ phận như Fox Broadcasting Company, Fox Television Station, Fox News Channel, Fox Business Network, Fox Sports 1 và 2, và Big Ten Network, tất cả đều sẽ được tách ra thành một công ty độc lập trước khi việc sáp nhập hoàn tất (cuối cùng được đặt tên là Fox Corporation). Tháng 6 năm sau, sau lời đề nghị phản đối từ Comcast trị giá 65 tỷ đô la, Disney đã tăng lời đề nghị của mình lên 71,3 tỷ đô la. Giao dịch chính thức đóng vào ngày 20 tháng 3 năm 2019. Theo các điều khoản mua lại, Disney sẽ loại bỏ dần việc sử dụng thương hiệu Fox vào năm 2024.

Bắt đầu từ tháng 3 năm 2018, một cuộc tái tổ chức chiến lược của công ty đã chứng kiến ​​sự ra đời của hai mảng kinh doanh, Công viên Disney, Trải nghiệm và Sản phẩm và Trực tiếp đến Người tiêu dùng & Quốc tế. Công viên & Sản phẩm tiêu dùng trước hết là sự hợp nhất của Công viên & Khu nghỉ dưỡng và Sản phẩm tiêu dùng & Phương tiện tương tác. Trong khi Direct-to-Consumer & International tiếp quản các đơn vị bán hàng, phân phối và phát trực tuyến của Disney International và toàn cầu từ Disney-ABC TV Group và Studios Entertainment cộng với Disney Digital Network. Cho rằng Giám đốc điều hành Iger mô tả nó là "định vị chiến lược doanh nghiệp của chúng tôi cho tương lai", The New York Times coi việc tái tổ chức được thực hiện với kỳ vọng mua lại 20th Century Fox.

2020–nay: Sự lãnh đạo của Bob Chapek và đại dịch COVID-19

Vào ngày 25 tháng 2 năm 2020, Disney bổ nhiệm Bob Chapek làm Giám đốc điều hành để kế nhiệm Iger, có hiệu lực ngay lập tức. Iger đảm nhận vai trò Chủ tịch điều hành, theo đó ông sẽ giám sát khía cạnh sáng tạo của công ty, đồng thời tiếp tục giữ vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị trong giai đoạn chuyển tiếp đến năm 2021.

Vào tháng 4 năm 2020, Iger tiếp tục nhiệm vụ hoạt động của công ty với tư cách là chủ tịch điều hành để giúp công ty trong đại dịch COVID-19 và Chapek được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị.  Cũng trong tháng, công ty thông báo rằng họ sẽ tạm ngừng trả lương cho hơn 100.000 nhân viên ("dàn diễn viên") tại Disney Parks, Experiences và Products để đối phó với cuộc suy thoái do COVID-19 — số tiền được báo cáo là hàng tháng tiết kiệm 500 triệu đô la cho công ty — trong khi tiếp tục cung cấp đầy đủ các lợi ích chăm sóc sức khỏe. Được biết, các nhân viên ở Hoa Kỳ và Pháp đã bị ảnh hưởng và đã được khuyến khích làm đơn xin chính phủ hỗ trợ.

Do đóng cửa các công viên Disney trong đại dịch COVID-19, Disney đã giảm 63% thu nhập trong quý tài chính thứ hai năm 2020, dẫn đến khoản lỗ 1,4 tỷ đô la cho công ty. Ngoài ra, bộ phận Công viên, Trải nghiệm và Sản phẩm đã bị mất doanh thu 1 tỷ đô la.  Vào tháng 9 năm 2020, công ty thông báo rằng họ sẽ sa thải 28.000 nhân viên ở Florida và California. Theo chủ tịch công viên của Disney, Josh D'Amaro, "Ban đầu chúng tôi hy vọng rằng tình trạng này sẽ qua đi và chúng tôi sẽ nhanh chóng phục hồi và trở lại bình thường. Bảy tháng sau, chúng tôi nhận thấy điều đó đã không xảy ra." Theo D'Amaro, 2/3 số nhân viên được cho là bị sa thải là những người làm việc bán thời gian. Sau đó vào tháng 11, Disney đã lên kế hoạch cắt giảm 4000 công việc so với công bố cho đến cuối tháng 3 năm 2021.

Vào tháng 12 năm 2020, Disney bổ nhiệm Alan Bergman làm chủ tịch bộ phận Nội dung của Disney Studios để giám sát các xưởng phim của mình.  Vào tháng 3 năm 2021, Disney công bố một bộ phận mới, 20th TV Animation, sẽ tập trung vào hoạt hình dành cho người lớn.

Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, Disney thông báo rằng họ sẽ tạm dừng mọi hoạt động kinh doanh tại Nga do cuộc xâm lược của đất nước này đối với Ukraine và cuộc khủng hoảng nhân đạo mà nó đã gây ra. Disney là hãng phim lớn đầu tiên của Hollywood ngừng phát hành một bộ phim điện ảnh lớn do sự xâm lược của Nga, và các hãng phim khác như Warner Bros. Pictures và Sony Pictures cũng theo sau ngay sau đó.

Trong suốt tháng 2 và tháng 3 năm 2022, phản ứng của Disney đối với dự luật cấm thảo luận trong trường học về giới tính và bản dạng tình dục (HB 1557, được gọi là dự luật "Đừng nói đồng tính") đã dẫn đến tranh cãi về việc công ty thiếu sự lên án và những hạn chế trước đây đối với Nội dung về LGBT, cuối cùng dẫn đến một cuộc dạo chơi hiếm hoi của nhân viên.

Các chi nhánh và công ty con

Chi nhánh

nhỏ|Lâu đài [[Cô bé Lọ Lem (Cinderella Castle) cùng một số nhân vật Disney tại công viên giải trí Disneyland ở Quận Cam, Florida, Mỹ.]] nhỏ|[[Nhà biểu diễn nhạc Walt Disney]] nhỏ|Lâu đài "[[Công chúa ngủ trong rừng" tại Disneyland Anaheim]] nhỏ|[[Magic Kingdom thuộc Walt Disney World Resort tại Florida]]

  • The Walt Disney Studios: Bao gồm các bộ phim, nhãn hiệu ghi âm và các chi nhánh liên quan đến điện ảnh khác của công ty. Walt Disney Studios (bộ phận), đơn vị Studio Entertainment của Công ty Walt Disney, bao gồm các hãng phim Disney, hãng ghi âm nhạc, các công ty sản xuất sân khấu, và các công ty phân phối. Walt Disney Studios (Burbank), khu phức hợp ở Burbank, California, được xây dựng vào năm 1939, phục vụ như là trụ sở chính của công ty. Nó cũng là một phim trường và nơi sản xuất và tổ chức sự kiện cho các doanh nghiệp giải trí khác nhau của Disney Walt Disney Animation Studios, chuyên sản xuất các sản phẩm phim hoạt hình, phim ngắn và chương trình truyền hình cho Công ty dưới nhãn hiệu "Walt Disney Pictures Walt Disney Studios Motion Pictures, nhà phân phối phim điện ảnh đầu tiên của các bộ phim Disney ở Mỹ và ở nước ngoài Walt Disney Studios Home Entertainment, nhà phân phối phương tiện truyền thông chính cho gia đình của Disney ở Mỹ và ở nước ngoài Touchstone Pictures Pixar Animation Studios Marvel Studios Lucasfilm 20th Century Studios
  • Walt Disney Parks and Resorts: Bao gồm các công viên giải trí, hệ thống du lịch bằng tàu thủy và các bất động sản liên quan đến du lịch khác của công ty. Bao gồm Disneyland, Walt Disney Parks and Resorts, Disneyland Resort, Walt Disney World Resort, Tokyo Disney Resort, Disneyland ở Tokyo, Disneyland Paris, Euro Disney S.C.A., Hong Kong Disneyland Resort (bao gồm Hong Kong Disneyland), Shanghai Disney Resort, Disney Vacation Club, và Disney Cruise Line.
  • Disney Consumer Products: Sản xuất đồ chơi, trang phục và các loại hàng hóa khác dựa trên quyền sở hữu tài sản của Disney.
  • Disney Interactive: Cung cấp các dịch vụ Internet.
  • Disney Media Networks: Bao gồm các kênh truyền hình sau: Disney–ABC Television Group ** ABC Television Network Freeform * ABC Owned Television Stations Group *** Live Well Network A+E Networks (50%) * Disney Channels Worldwide ** Radio Disney Disney Television Animation Disney Channel ** Disney XD ESPN Inc. (80%) ** Hulu (32%)

Công ty con

Những đơn vị sản xuất các loại hình giải trí của công ty bao gồm: Walt Disney Studios, Walt Disney Pictures, Disney Music Group, Disney Theatrical Group, Disney-ABC Television Group, Radio Disney, 20th Century Fox, ESPN Inc., Disney Interactive Media Group, Disney Consumer Products, Disney India Ltd., The Muppets Studio, Pixar Animation Studios, Marvel Entertainment, UTV Software Communications, Lucasfilm và Maker Studios.

Hệ thống công viên giải trí và nghỉ dưỡng của công ty bao gồm: Walt Disney Parks and Resorts, Disneyland Resort, Walt Disney World Resort, Tokyo Disney Resort, Disneyland Paris, Euro Disney S.C.A., Hong Kong Disneyland Resort, Disney Vacation Club và Disney Cruise Line.

Khác

  • Rạp El Capitan

Quản lý điều hành

Chủ tịch

  • 1923–1945: Walt Disney
  • 1945–1966: Roy O. Disney
  • 1966–1971: Donn Tatum
  • 1971–1977: Card Walker
  • 1978–1983: Ron W. Miller
  • 1984–1994: Frank Wells
  • 1995–1997: Michael Ovitz
  • 2000–nay: Robert Iger

Tổng giám đốc điều hành (CEO)

  • 1929–1971: Roy O. Disney
  • 1971–1976: Donn Tatum
  • 1976–1983: Card Walker
  • 1983–1984: Ron W. Miller
  • 1984–2005: Michael Eisner
  • 2005–nay: Robert Iger

Chủ tịch Hội đồng quản trị

Walt Disney giảm chức danh Chủ tịch HĐQT của ông vào năm 1960 để tập trung hơn vào các khía cạnh sáng tạo của công ty, trở thành "nhà sản xuất điều hành chịu trách nhiệm toàn bộ sản xuất." Sau bốn năm để trống, Roy Disney đã lên nắm chức danh này.

  • 1945–1960: Walt Disney
  • 1964–1971: Roy O. Disney
  • 1971–1980: Donn Tatum
  • 1980–1983: Card Walker
  • 1983–1984: Raymond Watson
  • 1984–2004: Michael Eisner
  • 2004–2006: George J. Mitchell
  • 2007–2012: John E. Pepper, Jr.
  • 2012–nay: Robert Iger

Phó chủ tịch Hội đồng quản trị

  • 1984–2003: Roy E. Disney
  • 1999–2000: Sanford Litvack (đồng phó chủ tịch)

Giám đốc tác nghiệp (COO)

  • 1984–1995: Frank Wells
  • 1997–1999: Sanford Litvack (Quyền giám đốc)
  • 2000–2005: Robert Iger

Chỉ trích

Một số bộ phim hoạt hình của Disney bị chỉ trích, cáo buộc chứa nội dung tình dục ẩn trong đó, ví dụ như Nàng tiên cá (1989), Aladdin (1992), và Vua sư tử (1994). Trường hợp nội dung tình dục ẩn trong một số phiên bản như Nhân viên cứu hộ (1977) và Who Framed Roger Rabbit (1988) dẫn đến việc thu hồi và sửa đổi các bộ phim để loại bỏ nội dung như vậy.

Một số nhóm vì lợi ích tôn giáo, như Liên hiệp Công giáo đã phản đối các bộ phim như Priest (1994) Dogma (1999). Việc tẩy chay bị ngưng lại bởi hầu hết các tổ chức này vào năm 2005.

Ngoài những tranh cãi xã hội, công ty đã bị cáo buộc vi phạm nhân quyền liên quan đến điều kiện làm việc trong các nhà máy sản xuất hàng hóa của họ.

Số liệu tài chính

Trong bản báo cáo thường niên, Disney tiết lộ rằng việc kinh doanh của họ "chịu ảnh hưởng bởi khả năng của công ty trong khai thác và bảo vệ chống lại sự vi phạm sở hữu trí tuệ, bao gồm thương hiệu, tên giao dịch, bản quyền, bằng sáng chế và bí quyết kinh doanh."

Doanh thu

Lợi nhuận

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công ty Walt Disney** () (), hay thường được biết đến với tên **Disney** ( ), là tập đoàn giải trí và truyền thông đa phương tiện lớn nhất thế giới. Được thành lập ngày
Robert Iger trở thành Giám đốc điều hành Công ty Walt Disney vào năm 2005, trong một thời kỳ khó khăn. Cạnh tranh khốc liệt hơn bao giờ hết và công nghệ thay đổi nhanh
**Walter Elias Disney** (; Theo Lillian, cuộc hôn nhân nói chung là hạnh phúc, mặc dù theo người viết tiểu sử về Disney tên Neal Gabler thì Lillian không "chấp nhận các quyết định của
**Walt Disney Animation Studios** (trước đây được biết đến với tên gọi **Walt Disney Feature Animation**, **Walt Disney Productions** và **Disney Brothers Cartoon Studio**), là một xưởng sản xuất phim hoạt hình của Hoa Kỳ
**Walt Disney Studios Motion Pictures** là một công ty phát hành phim của Mỹ trực thuộc The Walt Disney Company. Tuy nhiên, đã có sự bất đồng về giá trị doanh thu với series phim
**Disney+** (được phát âm là "**_Disney Plus_**") là một dịch vụ video theo yêu cầu của Mỹ được sở hữu và điều hành bởi bộ phận Walt Disney Direct-to-Consumer & International của Công ty Walt
**_Walt Disney Pictures_**, còn được gọi là **Disney Live Action**, và _Cướp biển vùng Caribe_ là loạt phim thành công nhất của hãng, với năm phần phim thu về tổng doanh thu phòng vé trên
**Nhà biểu diễn nhạc Walt Disney** (tiếng Anh: _Walt Disnney Concert Hall_) là một sảnh hòa nhạc ở số 111 Nam Grand Avenue Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Công trình này là sảnh thứ tư
**Danh sách các phim hoạt hình chiếu rạp của Disney** này bao gồm các bộ phim hoạt hình do The Walt Disney Studios, bộ phận sản xuất phim của Công ty Walt Disney, sản xuất
right Đây là **danh sách phim sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios**, một hãng phim hoạt hình của Hoa Kỳ có trụ sở tại Burbank, California, và trước đây được biết đến với các
frameless|right Đây là **danh sách các phim chiếu rạp** phát hành dưới thương hiệu phim Walt Disney Pictures (lấy tên như hiện nay từ năm 1983, phim đầu tiên phát hành dưới tên này là
**"Disney Vault"** (Két an toàn của Disney) là một thuật ngữ được Walt Disney Studios Home Entertainment sử dụng để miêu tả chính sách ngừng phát hành các sản phẩm băng giải trí tại gia
**Disney Jr.** (trước đây là Disney Junior) là mạng truyền hình trả tiền của Mỹ thuộc sở hữu của đơn vị Disney Entertainment thuộc Công ty Walt Disney thông qua Disney Branded Television. Nhắm chủ
**Walt Disney Records** là một hãng thu âm thuộc quyền sở hữu của Disney. ## Marketing ### Quảng cáo Từ năm 2007 về trước, Miley Cyrus, Selena Gomez, Demi Lovato, The Jonas Brothers và nhiều
**Disney Digital 3-D** là một thương hiệu do Công ty Walt Disney sử dụng để miêu tả các phim 3D được sản xuất và phát hành bởi Walt Disney Studios Motion Pictures và được trình
**_Công ty Quái vật_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Monsters, Inc._** hay đầy đủ là **_Monsters, Incorporated_**) là một bộ phim hoạt hình hài hước Mỹ của đạo diễn Pete Docter năm 2001, với nhà sản
**Freeform** là một kênh truyền hình cáp và vệ tinh của Hoa Kỳ thuộc sở hữu của Disney-ABC Television Group của Công ty Walt Disney. Freeform chủ yếu phát sóng chương trình hướng tới thanh
**Disney XD** là một kênh truyền hình cáp kỹ thuật số và vệ tinh thuộc sở hữu Disney Channels Worldwide có đơn vị là Disney–ABC Television Group, trực thuộc Disney Media Networks do The Walt
**Disney Research** là mạng lưới phòng nghiên cứu hỗ trợ cho Công ty Walt Disney. Mục đích của chuỗi phòng thí nghiệm này là phát triển các sáng chế công nghệ và khoa học nhằm
Robert Iger trở thành Giám đốc điều hành Công ty này vào năm 2005, trong một thời kỳ khó khăn. Cạnh tranh khốc liệt hơn bao giờ hết và công nghệ thay đổi nhanh hơn
**_Disney Princess_** là một thương hiệu truyền thông sở hữu bởi Công ty Walt Disney, do chủ tịch của Disney Consumer Products, Andy Mooney sáng tạo ra vào cuối những năm 1990. Thương hiệu này
**Pixar Animation Studios** () là hãng phim hoạt hình nổi tiếng của Hoa Kỳ có trụ sở chính tại Emeryville, California. Pixar được biết đến với những phim hoạt hình 3D dùng công nghệ tạo
**Disney Channel** là một kênh truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh kênh cơ bản mà chương trình phát sóng trong khu vực Đông Nam Á như là tài sản chủ lực của chủ
**Pluto** (thường được biết đến như **Chó Pluto**) là một nhân vật trong phim hoạt hình do Công ty Walt Disney tạo ra. Pluto là một chú chó có màu vàng cam, kích thước trung
**Disney Channel** là một mạng lưới truyền hình vệ tinh và truyền hình cáp của Mỹ, sở hữu do Disney-ABC Television Group (thuộc công ty Walt Disney) có trụ sở tại Burbank, California. Kênh truyền
**_Cuộc giải cứu thần kỳ_** () là phim hài-chính kịch tiểu sử được các hãng phim ba nước Hoa Kỳ-Úc-Anh hợp tác sản xuất năm 2013 do John Lee Hancock đạo diễn và Kelly Marcel
**_Nữ hoàng băng giá_** (còn gọi là _Băng giá_, ) là một bộ phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios
**Hulu** (, ) là một dịch vụ thuê bao phát trực tuyến video của Mỹ, thuộc sở hữu của Disney Streaming, một công ty con của bộ phận Disney Entertainment thuộc Công ty Walt Disney.
**Marvel Entertainment, LLC** (trước đây là **Marvel Enterprises** và **Toy Biz, Inc.**, sau đó được tiếp thị và cách điệu thành **MARVEL**) là một công ty giải trí của Mỹ được thành lập
**Marvel Studios, LLC** (ban đầu có tên là **Marvel Films** từ 1993–1996) là một xưởng phim điện ảnh Mỹ dựa trên The Walt Disney Studios ở Burbank, California. Vốn trước đây là một bộ phận
**_Người đẹp và quái vật_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Beauty and the Beast_**; còn có tựa Việt khác là **_Người đẹp và quái thú_**) là phim điện ảnh hoạt hình mang yếu tố nhạc kịch
**20th Century Studios, Inc** (được gọi tắt là **20th Century**, hoặc **20th**, trước đây gọi là _Twentieth Century-Fox Film Corporation_ từ 1935 đến 1985 và _Twentieth Century Fox Film Corporation_ từ 1985 đến 2020) là
**_Nàng tiên cá_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The Little Mermaid_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại nhạc kịchphiêu lưukỳ ảo công chiếu vào năm 2023 do Rob Marshall làm đạo diễn

**_Saban Entertainment, Inc_.** (cùng với Saban International - hoạt động bên ngoài Hoa Kỳ, tên pháp lý hiện tại là **BVS Entertainment, Inc.**) là một công ty sản xuất truyền hình Mỹ-Israel độc lập
là một phim điện ảnh hoạt hình kỳ ảo của Nhật Bản, do Studio Ghibli thực hiện với kịch bản, sản xuất và đạo diễn bởi Miyazaki Hayao. Truyện phim xoay quanh một nữ phù
**Fox Networks Group (FNG),** là một đơn vị của Walt Disney Direct-to-Consumer & International (trước đây là 21st Century Fox) chuyên sản xuất và phân phối các kênh truyền hình trả tiền. FNG hiện đang
**John Alan Lasseter** (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1957) là một đạo diễn, họa sĩ hoạt hình, biên kịch, nhà sản xuất người Mỹ, hiện đang giữ vai trò giám đốc sáng tạo cho
**_Captain America: Nội chiến siêu anh hùng_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Captain America: Civil War_**) là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2016 dựa trên nhân vật truyện tranh Captain America của
**Miley Ray Cyrus** (tên khai sinh: **Destiny Hope Cyrus**; sinh ngày 23 tháng 11 năm 1992) là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, diễn viên, nhà từ thiện người Mỹ. Sau khi tham gia
**Công ty Cổ phần Phim Thiên Ngân** (tên tiếng Anh: **_Galaxy Studio Joint Stock Company_**, gọi tắt là **Galaxy Studio JSC**), hay còn gọi với cái tên là **Hãng phim Thiên Ngân** và **Galaxy Studio**,
**_Tiên hắc ám_** (tiếng Anh: **_Maleficent_**) là bộ phim phiêu lưu viễn tưởng, thần tiên năm 2014 được đạo diễn bởi Robert Stromberg và sản xuất bởi Walt Disney Pictures. Kịch bản được Linda Woolverton
**Công chúa và chàng ếch** (tiếng Anh: **_The Princess and the Frog_**) là bộ phim hoạt hình thứ 49 của hãng hoạt hình Walt Disney, được phát hành vào năm 2009. Bộ phim lấy cảm
**Rạp chiếu phim El Capitan** () là một lâu đài chiếu phim được phục hồi lại hoàn toàn, nằm ở số 6838 đường Hollywood Boulevard tại Hollywood. Rạp chiếu phim này, cùng với các toà
**American Broadcasting Company** (viết tắt **ABC**; tiếng Anh của "Công ty Phát sóng Mỹ") tên khác là **_The Alphabet Network_** là mạng truyền hình và radio Mỹ. ABC được thành lập vào năm 1943, tiền
**Disney Networks Group Châu Á Thái Bình Dương** (trước đây là **Satellite Television Asian Region Limited** (tên thương mại từ 2001 là **Star TV**, cách điệu thành **STAR TV**, và sau đó là **Star** cho
**Marvel Comics** (hay đơn giản là **Marvel**) là nhà xuất bản truyện tranh của Mỹ và là chi nhánh chính của **Marvel Worldwide Inc.** (trước đây là **Marvel Publishing, Inc.** và **Marvel Comics Group**), một
**Touchstone Television Productions**, tên thương mại là **ABC Studios**, là một xưởng sản xuất phim truyền hình Mỹ trực thuộc Disney Broadcast Studios của Walt Disney Televison (cả hai đều thuộc sở hữu của Công
**FX** là một kênh truyền hình trả tiền của Mỹ thuộc sở hữu của FX Networks, LLC, một công ty con của đơn vị Disney General Entertainment thuộc Công ty Walt Disney. Phát sóng ngày
Tòa văn phòng trụ sở của Kodansha **Công ty cổ phần Kōdansha** (株式会社講談社, かぶしきがいしゃ こうだんしゃ, Kabushiki-gaisha Kōdansha - Chu thức Hội xã Giảng Đàm Xã) là nhà xuất bản lớn nhất tại Nhật Bản, trụ
**Viacom**, viết tắt của cụm từ tiếng Anh "**Vi**deo & **A**udio **Com**munications" là một tập đoàn truyền thông của Mỹ tập trung chủ yếu vào điện ảnh và truyền hình cáp. Trong năm 2010, Viacom