✨Alfred Hitchcock

Alfred Hitchcock

Sir Alfred Joseph Hitchcock (13 tháng 8 năm 1899 – 29 tháng 4 năm 1980) là một đạo diễn, nhà biên kịch và nhà sản xuất phim người Anh. Ông là một trong những nhà làm phim có ảnh hưởng và được nghiên cứu nhiều nhất lịch sử điện ảnh. Năm 2012, tác phẩm giật gân Vertigo của ông với sự góp mặt của Stewart, đã soán ngôi Công dân Kane (1941) của Orson Welles để trở thành phim điện ảnh hay nhất mọi thời đại của Viện phim Anh, dựa trên cuộc bầu chọn của hàng trăm nhà phê bình điện ảnh khắp thế giới. Người anh trai William theo cha làm nghề bán rau quả.

Ngoài ra ông còn có một đại gia đình lớn, trong đó người chú John Hitchcock sở hữu căn nhà Victoria 5 giường ngủ ở Đường Campion, Putney, cùng sự phục vụ của người giúp việc, đầu bếp, tài xế riêng và thợ làm vườn. Mỗi mùa hè John thuê cho gia đình một căn nhà bên bờ biển ở Cliftonville, Kent. Hitchcock cho biết ông lần đầu nhận thức về gia cấp tại đây, nhìn rõ những khác biệt giữa khách du lịch và người dân địa phương.

Hitchcock tự miêu tả mình là một cậu nhóc ngoan ngoãn (cha ông còn đặt biệt danh cho con mình là "chú cừu nhỏ không có lấy một vết nhơ"). Ông nói rằng bản thân không thể nhớ nổi một người bạn thuở bé. Một trong những câu chuyện yêu thích mỗi dịp ông được phỏng vấn là chuyện cha gửi ông tới đồn cảnh sát với một mẩu giấy khi ông 5 tuổi; cảnh sát đọc mẩu giấy và nhốt ông trong xà lim trong ít phút, họ nói với ông: "Đây là những gì bọn chú làm với những cậu nhóc hư." Trải nghiệm ấy đã để lại cho ông nỗi sợ thường trực với cảnh sát; năm 1973 ông nói với Tom Snyder rằng ông "sợ bất cứ điều gì... dính dáng đến luật pháp" và thậm chí sẽ không lái xe trong trường hợp bị dính vé phạt.

Năm lên 6 tuổi, gia đình ông chuyển đến quận Limehouse và thuê cửa hàng ở số 130 đường Salmon Lane để bán món cá và khoai tây chiên và cửa hàng số 175 đường Salmon Lane để bán cá; họ sống trong lầu trên căn số 130. Hitchcock tới trường học đầu tiên, Tu viện Howrah ở Poplar, nơi ông nhập học vào năm 1907, tức lúc 7 tuổi. Theo cây viết tiểu sử Patrick McGilligan, ông ở Nhà Howrah trong hai năm. Ông còn theo học một trường tu viện nữa là Trường phố Wode "dành cho con gái của các quý ông và những cậu bé", do viện Cơ đốc giáo Faithful Companions of Jesus điều hành. TIếp đó ông theo học một trường tiểu học gần nhà và đi học nội trú ở Cao đẳng Salesian tại Battersea trong một thời gian ngắn. trái|nhỏ|Trạm xăng tại địa chỉ số 517 High Road, [[Leytonstone, nơi Hitchcock chào đời; tranh tường kỷ niệm nằm ở số 527–533 (phải)]] Gia đình lại chuyển đi năm ông 11 tuổi, lần này là đến Stepney, và vào ngày 5 tháng 10 năm 1910, Hitchcock được gửi nhập học trường Cao đẳng St Ignatius ở Stamford Hill, Tottenham (sáp nhập vào khu tự quản Haringey mới của Luân Đôn), một ngôi trường dạy ngữ pháp theo đạo Dòng Tên nổi tiếng về kỷ luật. Để trừng phạt thân thể học trò, các linh mục đã sử dụng một công cụ/vũ khí phẳng và cứng (có lò xo làm bằng cây gutta-percha và được gọi là "ferula") để đánh vào cả lòng bàn tay; hình phạt luôn diễn ra vào cuối ngày, vì vậy các cậu nam sinh phải ngồi trong lớp dự đoán hình phạt nếu chúng bị điểm tên vì tội đó. Sau này ông kể rằng đây là nơi mình phát triển cảm giác sợ hãi. Sổ đăng ký của trường ghi năm sinh của ông là 1900 chứ không phải 1899; cây viết tiểu sử Donald Spoto cho biết Hitchcok cố tình ghi danh năm 10 tuổi vì ông đi học chậm một năm.

Trong khi cây viết tiểu sử Gene Adair ghi chép rằng Hitchcock là "học sinh ở mức trung bình hoặc trên trung bình một chút", Hitchcock lại kể rằng ông "thường nằm trong 4 hoặc 5 bạn đứng đầu lớp"; vào cuối năm học đầu tiên, việc học tập tiếng Latin, tiếng Anh, tiếng Pháp và giáo dục tín ngưỡng của ông đã được ghi nhận. Ông kể với Peter Bogdanovich: "Các tu sĩ Dòng Tên đã dạy tôi tổ chức, kiểm soát và ở mức độ nào đấy là phân tích."

Môn học yêu thích của Hitchcock là môn địa lý; ông bắt đầu quan tâm đến bản đồ, lịch trình xe lửa, xe điện và xe buýt; theo John Russell Taylor, ông có thể thuộc lòng tất cả các điểm dừng trên tàu tốc hành Phương Đông. Ông còn đặc biệt quan tâm đến xe điện ở Luân Đôn. Phần lớn các bộ phim của ông có các cảnh xe lửa hoặc xe điện, đặc biệt là The Lady Vanishes, Strangers on a TrainNumberteen. Một tấm chập ghi số cảnh và số lần quay, và Hitchcock thường lấy hai con số trên tấm chập và thì thầm tên các tuyến xe điện ở London. Ví dụ: nếu tấm chập ghi Cảnh 23; Lượt 3; Hitchcock sẽ thì thầm "Woodford, Hampstead" – Woodford là ga cuối của tuyến xe điện 23, và Hampstead là điểm cuối của tuyến 3.

Henley's

Hitchcock nói với cha mẹ rằng ông muốn làm kỹ sư, rồi ngày 25 tháng 7 năm 1913, ông rời St Ignatius và theo học các lớp học đêm của Trường kĩ thuật và hàng hải thuộc Hội đồng quận Luân Đôn ở Poplar. Trong một cuộc phỏng vấn dài qua sách vào năm 1962, ông kể với François Truffaut rằng ông theo học các ngành "cơ học, điện, âm học và hàng hải". Ngày 12 tháng 12 năm 1914, cha ông vốn là người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và bệnh thận, đã từ trần ở tuổi 52. Nhằm trang trải cho bản thân và mẹ (lúc bấy giờ anh chị của ông đã rời nhà), Hitchcock nhận công việc thư ký kĩ thuật với mức lương 15 shillings một tuần (£ vào năm 2017), tại Công ty cáp và điện báo Henley ở Phố Blomfield gần Bức tường Luân Đôn. Ông tiếp tục theo đi các lớp học đêm, lần này là theo chuyên ngành lịch sử nghệ thuật, hội họa, kinh tế và khoa học chính trị. Anh trai ông là người điều hành các cửa hàng của gia đình, còn ông và mẹ thì tiếp tục sống tại Salmon Lane.

Hitchcock quá nhỏ để nhập ngũ khi Thế chiến thứ nhất bắt đầu vào tháng 7 năm 1914; cho đến lúc ông tròn 18 tuổi vào năm 1917, ông nhận được một tấm bằng phân loại C3 ("không mắc bệnh cơ quan nghiên trọng, có thể chấp hành các điều kiện dịch vụ đồn trú tại gia... chỉ phù hợp với công việc ngồi một chỗ"). Ông gia nhập trung đoàn học viên của lớp huấn luyện quân sự Royal Engineers và tham gia các buổi hướng dẫn chiến thuật, tập trận và thực hành cuối tuần. John Russell Taylor viết rằng, trong một buổi thực hành ở Hyde Park, Hitchcock bị bắt phải đeo xà cạp. Ông không thể quần chúng thành thạo quanh chân mình, và chúng liên tục rớt xuống mắt cá chân của ông.

Sau chiến tranh, Hitchcock hứng thú với nghề viết lách sáng tạo. Tháng 6 năm 1919 ông trở thành cây viết sáng lập và giám đốc kinh doanh chi nhánh ấn phẩm nội bộ của Henley là The Henley Telegraph (sáu xu cho một bản), ông đã nộp nhiều truyện ngắn cho ấn phẩm này. Henley's đã thăng chức cho ông vào bộ phận quảng cáo, nơi ông viết đề tài và vẽ minh họa cho các quảng cáo điện cáp. Ông rất yêu công việc và nán lại muộn tại văn phòng để kiểm tra các bằng chứng; ông nói với Truffaut rằng đây là "bước tiến đầu tiên vào điện ảnh của mình". Ông rất thích xem phim, đặc biệt là điện ảnh Mỹ, từ năm 16 tuổi ông đã đọc tạp chí thương mại; ông xem các tác phẩm của Charlie Chaplin, D. W. Griffith và Buster Keaton, đặc biệt thích phim Der müde Tod (1921) của Fritz Lang.

Sự nghiệp giữa hai cuộc Thế chiến: 1919–1939

Famous Players-Lasky

thumb|alt=An early 1920s image of Hitchcock while directing his film titled Number 13|Hitchcock (phải) trong lúc làm phim [[Number 13 (phim 1922)|Number 13 ở Luân Đôn]] Từ lúc còn ở Henley's, ông đã đọc tạp chí trên một tạp chí thương mại rằng Famous Players-Lasky, chi nhánh sản xuất của Paramount Pictures đang mở một xưởng phim ở Luân Đôn. Họ đang lên kế hoạch ghi hình phim The Sorrows of Satan của Marie Corelli, sthế nên ông đã vẽ một vài bức họa cho bảng nội đề và gửi chúng tới xưởng phim. Họ đồng ý nhận thuê ông và vào năm 1919, ông bắt đầu làm việc cho Islington Studios ở Phố Poole, Hoxton dưới vai trò nhà thiết kế bảng nội đề.

Donald Spoto viết rằng phần lớn đội ngũ là người Mỹ với những đặc tính công việc khắt khe, nhưng những nhân công người Anh lại được khuyến khích thử sức bất kì thứ gì, tức là Hitchcock đã tích lũy kinh nghiệm ở các vai trò đồng biên kịch, chỉ đạo nghệ thuật và quản lý sản xuất trong ít nhất 18 phim câm. Tháng 2 năm 1922, The Times viết một bài về "bộ phận làm bảng nội đề nghệ thuật đặc biệt dưới quyền giám sát của Ngài A. J. Hitchcock" của xưởng phim. Những tác phẩm của ông gồm có Number 13 (1922), còn có tựa là Mrs. Peabody; phim đã bị ngừng chiếu bởi các vấn đề tài chính—một ít cảnh đã quay xong lại bị mất—và Always Tell Your Wife (1923) – phim mà ông và Seymour Hicks hoàn thành cùng nhau khi mà Hicks có ý định bỏ dở giữa chừng. Sau này Hicks ghi chép về việc được giúp đỡ bởi "một cậu thanh niên mập đang phụ trách quản lý phòng tài sản ... [k]hông một ai ngoài Alfred Hitchcock".

Gainsborough Pictures và làm việc ở Đức

thumb|left|Tượng điêu khắc Hitchcock đặt ở [[Gainsborough Pictures, Phố Poole, Hoxton]] Khi Paramount rút khỏi Luân Đôn vào năm 1922, Hitchcock được một công ty thuê làm trợ lý giám đốc tại chính địa bàn này bởi Michael Balcon, sau này còn có tên là Gainsborough Pictures. Hitchcock làm việc trong phim Woman to Woman (1923) cùng đạo diễn Graham Cutts, ông thiết kế hiện trường, viết kịch bản và sản xuất. Ông cho biết: "Đây là phim đầu tiên mà tôi thật sự phải nhúng tay vào." Người dựng phim kiêm "nữ biên kịch" của Woman to Woman là Alma Reville, vợ tương lai của ông. Ông còn làm trợ lý cho Cutts trong các phim The White Shadow (1924), The Passionate Adventure (1924), The Blackguard (1925) và The Prude's Fall (1925). The Blackguard được sản xuất tại Babelsberg Studios ở Potsdam, nơi Hitchcock theo dõi một bộ phận quá trình làm phim The Last Laugh (1924) của F. W. Murnau. Ông rất ấn tượng với cách làm phim của Murnau và sau này sử dụng kĩ thuật Murnau trong khâu thiết kế hiện trường ở những tác phẩm của mình.

Mùa hè 1925, Balcon đề nghị Hitchcock làm đạo diễn The Pleasure Garden (1925), với sự tham gia diễn xuất của Virginia Valli; đây là thành phẩm hợp tác giữa Gainsborough và công ty Emelka của Đức tại Geiselgasteig studio gần Munich. Hôn thê của Hitchcok lúc ấy, bà Reville là trợ lý đạo diễn kiêm nhà dựng phim. Mặc dù phim thất bại về mặt thương mại, Balcon lại thích tác phẩm của Hitchcock; một dòng tít trên tờ Daily Express ví ông là "Thanh niên trẻ sở hữu một trí óc bậc thầy". Quá trình sản xuất phim The Pleasure Garden gặp nhiều trục trực, làm cho Hitchcock phải rút ra bài học về sau: trên đường đến Brenner Pass, ông không khai báo thước phim cho hải quan và nó bị tịch thu; một nữ diễn viên không thể xuống nước để diễn vì cô đang đến kì; kinh phí bội lên làm ông phải vay tiền từ các diễn viên. Hitchcock còn cần một phiên dịch để hướng dẫn cho dàn diễn viên và đoàn làm phim.

Tại Đức, Hitchcock quan sát những sắc thái trong lối làm phim và điện ảnh Đức – chúng có tác động lớn đến ông. Khi rảnh không làm việc, ông ghé thăm các phòng trưng bày nghệ thuật, buổi hòa nhạc và bảo tàng của Berlin. Ông còn gặp gỡ các diễn viên, nhà văn và nhà sản xuất để xây dựng quan hệ. Balcon mời ông đạo diễn phim thứ hai ở Munich là The Mountain Eagle (1926), dựa trên nguyên tác có nhan đề Fear o' God. Bộ phim bị thất lạc và Hitchcock gọi tác phẩm là "một bộ phim cực kỳ tệ". Một năm sau, Hitchcock viết kịch bản kiêm đạo diễn phim The Ring; mặc dù kịch bản ghi công mỗi tên ông, Elliot Stannard là người đã hỗ trợ ông trong lúc xây dựng kịch bản. The Ring thu được những nhận xét tích cực; tạp chí phê bình Bioscope gọi đây là "phim Anh tráng lệ nhất từng được làm ra".

Khi trở về Anh, Hitchcock là một trong những thành viên đầu tiên của Hiệp hội điện ảnh Luân Đôn, mới được thành lập năm 1925. Nhờ có Hiệp hội, ông bị cuốn hút bởi tác phẩm của những nhà làm phim Liên Xô: Dziga Vertov, Lev Kuleshov, Sergei Eisenstein và Vsevolod Pudovkin. Ông còn giao lưu với các nhà làm phim đồng nghiệp người Anh Ivor Montagu, Adrian Brunel và Walter C. Mycroft.

Hitchcock thành danh trong vai trò đạo diễn với bộ phim kinh dị đầu tiên của mình là The Lodger: A Story of the London Fog (1927). Bộ phim kể về cuộc săn lùng sát nhân hàng loạt kiểu Jack the Ripper mặc áo choàng đen và đeo một cái túi đen, y là hung thủ sát hại phụ nữ trẻ tóc vàng ở London và chỉ vào các ngày Thứ Ba. Một bà chủ trọ nghi ngờ rằng người thuê trọ của mình là tên sát nhân, song hoá ra anh ta vô tội. Để truyền tải ấn tượng cho người xem thấy rằng tiếng bước chân được nghe thấy từ tầng trên, Hitchcock đã thiết kế một sàn kính để khán giả có thể nhìn thấy người thuê trọ đi lại trong phòng của anh ta phía trên bà chủ trọ. Hitchcock từng muốn nam chính phải chịu tội, hoặc ít nhất là bộ phim kết thúc một cách mơ hồ, nhưng ngôi sao của tác phẩm lại là Ivor Novello, một thần tượng nhạc kịch và thuộc "hệ thống ngôi sao", tức Novello không thể là nhân vật phản diện. Hitchcock kể với Truffaut: "Bạn phải đánh vần rõ bằng chữ cái lớn: 'Anh ta vô tội'." (Nhiều năm sau, ông cũng gặp vấn đề tương tự với Cary Grant trong phim Suspicion vào năm 1941). Ra rạp vào tháng 1 năm 1927, The Lodger gặt hái thành công về mặt thương mại lẫn phê bình ở Anh. Sau khi phim chiếu rạp, tạp chí thương mại Bioscope đã viết: "Có thể bộ phim này là tác phẩm hay nhất của Anh từng được thực hiện".

Hôn nhân

nhỏ|Nhà Hitchcock trong ngày tổ chức đám cưới ở [[Brompton Oratory, 2 tháng 12 năm 1926.]] Ngày 2 tháng 12 năm 1926, Hitchcock kết hôn với nhà biên kịch người Anh-Mỹ Alma Reville (1899–1982) tại Nhà thờ Brompton ở Nam Kensington. Cặp đôi đi hưởng tuần trăng mật ở Paris, Hồ Como và St. Moritz, trước khi trở về Luân Đôn sống chung trong hai tầng trên cùng của căn hộ cho thuê ở số 153 Đường Cromwell, Kensington. Reville sinh ra chỉ ít giờ sau Hitchcock, và đã cải đạo Tin Lành sang Công giáo, dường như là do mẹ Hitchcock nài nỉ; bà được rửa tội vào ngày 31 tháng 5 năm 1927 và làm lễ tại Nhà thờ lớn Westminster bởi Hồng y Francis Bourne vào ngày 5 tháng 6.

Năm 1928, khi biết tin Reville mang bầu, nhà Hitchcock đã mua một trang trại Tudor đặt tên là "Winter's Grace" rộng 11 mẫu Anh trên Hẻm Stroud, Shamley Green, Surrey với giá 2.500 bảng Anh. Đứa con gái và con độc của họ, Patricia Alma Hitchcock, chào đời vào ngày 7 tháng 7 năm đó. Patricia mất vào ngày 9 tháng 8 năm 2021, thọ 93 tuổi.

Reville trở thành người cộng sự thân thiết nhất của chồng mình; Charles Champlin từng viết vào năm 1982: "Xúc giác của Hitchcock có 4 cái thì hai cái là của Alma." Khi Hitchcock nhận giải Thành tựu trọn đời của Viện phim Mỹ vào năm 1979, ông phát biểu rằng muốn nhắc đến "4 người đã dành cho tôi tình cảm, sự trân trọng và động viên nhất cùng sự hợp tác vững bền. Người đầu tiên trong 4 người là nhà dựng phim, người thứ hai là biên kịch, người thứ ba là mẹ của con gái tôi tên Pat, và người thứ tư là đầu bếp từng thể hiện những phép màu trong căn bếp của gia đình. Và tên của 4 người họ là Alma Reville." Reville là người chắp bút hoặc đồng chắp bút kịch bản trong nhiều phim của Hitchcock, chẳng hạn như Shadow of a Doubt, SuspicionThe 39 Steps.

Những bộ phim có tiếng đầu tiên

thumb|upright|left|Quảng cáo cho bộ phim [[Blackmail (phim 1929)|Blackmail (1929)]]

Hitchcock bắt đầu thực hiện dự án phim thứ 10 là Blackmail (1929), khi công ty sản xuất phim là British International Pictures (BIP) chuyển hoạt động từ xưởng phim Elstree sang làm phim có tiếng. Đây là bộ "phim có tiếng" đầu tiên của Anh; từ đó làm phát triển mạnh việc ra đời các bộ phim có tiếng ở Mỹ, từ sử dụng những đoạn âm thanh ngắn trong The Jazz Singer (1927) cho tới bộ phim dài đầu tiên nói từ đầu tới cuối The Lights of New York (1928). Blackmail mở đầu cho thói quen sử dụng các địa danh nổi tiếng làm bối cảnh cho những phân cảnh hồi hộp của Hitchcock, với đoạn cao trào diễn ra trên mái vòm Bảo tàng Anh. Trong thời gian này, Hitchcock chỉ đạo các đoạn thuộc vở kịch thời sự Elstree Calling (1930) của BIP và đạo diễn phim ngắn An Elastic Affair (1930) có sự tham gia của hai quán quân học bổng Film Weekly. An Elastic Affair là một trong những tác phẩm bị thất lạc.

Năm 1933, Hitchcock ký hợp đồng làm nhiều phim với Gaumont-British và một lần nữa làm việc dưới trướng Michael Balcon. Bộ phim đầu tiên của ông cho công ty mới là The Man Who Knew Too Much (1934) đã gặt hái thành công; phim thứ hai The 39 Steps (1935) được khen ngợi ở Anh và giúp ông được công nhận ở Mỹ. Phim còn cho ra đời "nàng tóc vàng của Hitchcock" (Madeleine Carroll) tinh hoa của người Anh – hình mẫu cho sự kế thừa những cô nàng vừa lạnh lùng vừa thanh lịch của ông. Nhà biên kịch Robert Towne nhận xét: "Không quá lời khi nói rằng tất cả sự giải trí thoát ly thực tế đương đại khởi đầu bằng The 39 Steps". Phim này là một trong những tác phẩm đầu tiên giới thiệu chi tiết dẫn dắt cốt truyện "MacGuffin", thuật ngữ do nhà biên kịch người Anh Angus MacPhail đặt ra. MacGuffin là một món đồ hoặc mục tiêu mà nhân vật chính theo đuổi, mặc khác nó không hề có giá trị dẫn truyện; trong The 39 Steps, MacGuffin là tập hợp các bản thiết kế bị đánh cắp. nhỏ|[[Alma Reville, Joan Harrison, Hitchcock và Patricia Hitchcock vào ngày 24 tháng 8 năm 1937]] Hitchcock phát hành hai tựa phim giật gân gián điệp vào năm 1936. Phim Sabotage dựa trên tiểu thuyết của Joseph Conrad, phim The Secret Agent (1907) kể về một người phụ nữ phát hiện ra rằng chồng mình là một tên khủng bố, và Secret Agent dựa trên hai mẩu chuyện trong Ashenden: Or the British Agent (1928) của W. Somerset Maugham.

Lúc bấy giờ, Hitchcock còn khét tiếng với những trò chơi khăm dàn diễn viên và đoàn làm phim. Những trò đùa này trải dài từ đơn giản và vô tư đến điên rồ. Chẳng hạn, ông tổ chức một bữa tiệc tối, nơi ông nhuộm tất cả thức ăn thành màu xanh lam vì vị đạo diễn cho rằng không có đủ thức ăn màu xanh lam. Ông còn gửi một con ngựa đến phòng thay đồ của bạn mình là nam diễn viên Gerald du Maurier.

Kế đến Hitchcock cho ra mắt Young and Innocent vào năm 1937, một bộ phim giật gân hình sự dựa trên cuốn tiểu thuyết A Shilling for Candles của Josephine Tey. Với sự tham gia diễn xuất của Nova Pilbeam và Derrick De Marney, bộ phim tương đối thú vị đối với dàn diễn viên và đoàn làm phim. Để đáp ứng mục đích phân phối ở Mỹ, thời lượng phim đã bị cắt, kể cả loại bỏ một trong những cảnh yêu thích của Hitchcock: một bữa tiệc trà thiếu nhi trở thành mối đe dọa đối với các nhân vật chính.

Dự án thành công lớn tiếp theo của Hitchcock là The Lady Vanishes (1938), "một trong những bộ phim đề tài xe lửa hay nhất từ kỷ nguyên vàng của dòng phim", theo nhận định của Philip French, trong đó Miss Froy (May Whitty), một điệp viên người Anh giả làm gia sư bỗng biến mất trên một cuộc chuyến đi xe lửa qua đất nước Bandrika hư cấu ở châu Âu. Tác phẩm chứng kiến Hitchcock giành giải Hội phê bình phim New York năm 1938 cho Đạo diễn xuất sắc nhất. Benjamin Crisler của tờ New York Times viết vào tháng 6 năm 1938: "Ba thứ nổi danh độc đáo và giá trị mà người Anh có còn chúng tôi ở Mỹ không có: Đại Hiến chương, Cầu Tháp và Alfred Hitchcock, đạo diễn phim tâm lý tình cảm xuất sắc nhất thế giới." Bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết The Wheel Spins (1936) do Ethel Lina White sáng tác.

Đến năm 1938, Hitchcock biết rằng mình đã đạt đỉnh cao sự nghiệp ở Anh. Ông nhận được rất nhiều lời mời từ các nhà sản xuất ở Hoa Kỳ, song ông từ chối tất cả vì không thích các nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc cho rằng các dự án là phản cảm. Tuy nhiên, nhà sản xuất David O. Selznick đưa ra một đề xuất cụ thể là mời làm một bộ phim dựa trên vụ chìm tàu (dự án sau cùng bị xếp xó), nhưng Selznick đã thuyết phục thành công Hitchcock đến Hollywood. Tháng 7 năm 1938, Hitchcock bay đến New York và nhận ra rằng mình đã là một nhân vật nổi tiếng; ông có mặt trên các tạp chí và trả lời phỏng vấn cho các đài phát thanh. Tại Hollywood, Hitchcock gặp Selznick lần đầu tiên. Selznick đề nghị ông một bản hợp đồng làm 4 phim, khoảng 40.000 đô la Mỹ cho mỗi tác phẩm ().

Những năm đầu ở Hollywood: 1939–1945

Hợp đồng của Selznick

Selznick đã ký với Hitchcock bản hợp đồng có thời hạn 7 năm bắt đầu vào tháng 4 năm 1939, rồi nhà Hitchcock chuyển đến Hollywood. Nhà Hitchcock sống trong một căn hộ rộng lớn nằm trên Đại lộ Wilshire và dần dấn thích nghi với cuộc sống ở Los Angeles. Ông cùng vợ Alma đều kín tiếng và không hào hứng với việc tham dự các bữa tiệc hoặc trở thành người nổi tiếng. Hitchcock đã khám phá sở thích những món ăn hảo hạng ở Tây Hollywood, nhưng vẫn duy trì lối sống của mình từ Anh. Ông ấn tượng với văn hóa làm phim, kinh phí khổng lồ và năng suất của Hollywood, đem so sánh chúng với những hạn chế mà ông thường phải đối mặt ở Anh. Tháng 6 năm ấy, tạp chí Life ví ông là "bậc thầy kịch tâm lý xuất sắc nhất trong lịch sử màn ảnh".

Mặc dù Hitchcock và Selznick dành sự tôn trọng lẫn nhau, nhưng các khâu sắp xếp công việc của họ đôi khi gặp trục trặc. Selznick liên tục dính phải những vấn đề tài chính, còn Hitchcock thường không vui khi Selznick kiểm soát và can thiệp sáng tạo trong những bộ phim của ông. Selznick cũng không hài lòng với phương pháp ghi hình chỉ những gì có trong kịch bản của Hitchcock mà không còn gì khác, tức là bộ phim không thể bị cắt và tái dựng theo cách khác về sau. Giống như lời phàn nàn về cách "cắt ghép hình chết tiệt" của Hitchcock, cá tính của hai người tỏ ra không hòa hợp: Hitchcock dè dặt còn Selznick thì lại khoa trương. Sau cùng, Selznick hào phóng cho Hitchcock đi vay các xưởng phim lớn hơn. Selznick chỉ làm một ít him mỗi năm, giống như nhà sản xuất phim độc lập đồng hương Samuel Goldwyn, vì thế không phải lúc nào ông cũng nắm trong tay các dự án để Hitchcock làm đạo diễn. Goldwyn cũng thỏa thuận với Hitchcock về một bản hợp đồng tiềm năng, chỉ để Selznick đưa ra cái giá hấp dẫn hơn để giữ Hitchcock. Trong một buổi phỏng vấn sau này, Hitchcock chia sẻ: "[Selznick] là một nhà sản xuất lớn... Nhà sản xuất là vua. Lời tâng bốc nhất mà Ngài Selznick từng nói về tôi—và nó cho bạn thấy ổng nắm quyền kiểm soát ra sao—ổng nói rằng tôi là 'đạo diễn duy nhất' mà ông ấy 'tin tưởng với một bộ phim'."

thumb|Trailer của phim Rebecca (1940) Hitchcock tiến cận với nền điện ảnh Mỹ một cách thận trọng; bộ phim Mỹ đầu tiên của ông lấy bối cảnh ở Anh, trong đó "chất Mỹ" của các nhân vật là ngẫu nhiên: Rebecca (1940) lấy bối cảnh tại Cornwall – một phiên bản của Hollywood tại Anh và dựa trên một cuốn tiểu thuyết của tiểu thuyết gia người Anh Daphne du Maurier. Selznick nhất quyết muốn chuyển thể trung thành với tựa sách và không đồng ý với cách sử dụng yếu tố hài hước của Hitchcock. Với sự tham gia diễn xuất của Laurence Olivier và Joan Fontaine nói về một cô gái trẻ ngây thơ vô danh cưới một vị quý tộc góa vợ. Cô sống trong một căn biệt thự ở miền nông thôn nước Anh của chồng, và phải đấu tranh với danh tiếng còn sót lại của Rebecca – người vợ đầu thanh lịch và trần tục của ông, sau khi cô mất một cách bí ẩn. Tác phẩm đã giành Phim hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 13; tượng vàng được trao cho nhà sản xuất Selznick. Hitchcock thì nhận được đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất đầu tiên, một trong số 5 đề cử của ông sau này.

Dự án phim Mỹ thứ hai của Hitchcock là phim giật gân Foreign Correspondent (1940), lấy bối cảnh ở Châu Âu, dựa trên cuốn sách Personal History (1935) của Vincent Sheean và do Walter Wanger làm nhà sản xuất. Tác phẩm đã giành đề cử Oscar cho Phim xuất sắc nhất năm ấy. Hitchcock cảm thấy không thoải mái khi sống và làm việc ở Hollywood trong lúc nước Anh đang có chiến tranh; mối quan tâm của ông đã cho ra đời một bộ phim công khai ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Anh. Được ghi hình vào năm 1939, bộ phim lấy cảm hứng từ những sự kiện đang thay đổi nhanh chóng ở châu Âu, do một phóng viên tin tức người Mỹ (Joel McCrea) đưa tin. Bằng cách kết hợp những thước phim về các cảnh ở châu Âu với các cảnh được ghi hình trên phim trường ngoài trời của Hollywood, bộ phim tránh nhắc trực tiếp đến chủ nghĩa Quốc Xã, Đức Quốc Xã và người Đức để tuân thủ Bộ luật sản xuất điện ảnh vào thời điểm đó.

Những năm đầu thời chiến

Tháng 9 năm 1940, nhà Hitchcock mua lại Trang trại Cornwall rộng gần Thung lũng Scotts, California, nằm trong dãy núi Santa Cruz. Chỗ ở chính của họ là một căn nhà thiết kế theo kiểu Anh tại Bel Air, được mua vào năm 1942.

Saboteur (1942) là tác phẩm đầu tiên trong số hai phim mà Hitchcock làm cho hãng Universal Studios trong thập niên 40. Hitchcock bị Universal ép phải sử dụng hai diễn viên mà Universal đã ký hợp đồng là Robert Cummings và Priscilla Lane (một người hành nghề tự do ký hợp đồng đóng một phim với Universal), cả hai được biết tới với những tác phẩm hài và chính kịch nhẹ. Truyện phim miêu tả cuộc đối đầu giữa một nghi phạm phá hoại (Cummings) và kẻ phá hoại thực sự (Norman Lloyd) trên đỉnh Tượng Nữ thần Tự do. Hitchcock mất ba ngày đi quanh thành phố New York để tìm các địa điểm ghi hình cho Saboteur. Ông còn đạo diễn Have You Heard? (1942), một tác phẩm kịch dưới dạng hình ảnh cho tạp chí Life nói về mối nguy của những tin đồn trong thời chiến. Năm 1943, ông viết một câu chuyện ly kỳ cho tạp chí Look mang tên "Vụ ám sát Monty Woolley" – một chuỗi các bức ảnh có chú thích mời độc giả tìm kiếm những manh mối đến danh tính của tên sát nhân; Hitchcock đã tuyển các diễn viên vào vai chính họ như Woolley, Doris Merrick và người hóa trang Guy Pearce. nhỏ|Trailer bộ phim [[Shadow of a Doubt (1943) với Joseph Cotten và Teresa Wright.]] Trở lại nước Anh, mẹ của Hitchcock là bà Emma bị ốm nặng; bà từ trần vào ngày 26 tháng 9 năm 1942, thọ 79 tuổi. Hitchcock chưa bao giờ phát ngôn công khai về mẹ mình, nhưng người trợ lý của ông cho biết ông rất ngưỡng mộ bà. 4 tháng sau, tức vào ngày 4 tháng 1 năm 1943, người anh William của ông tử vong vì sốc thuốc ở tuổi 52. Hitchcock không quá thân thiết với William, nhưng cái chết của người anh làm Hitchcock ý thức về thói quen ăn uống của ông. Ông bị thừa cân và mắc chứng đau lưng. Ông hạ quyết tâm vào dịp Năm mới 1943 sẽ thực hiện nghiêm tức chế độ ăn với sự giúp đỡ của một bác sĩ. Tháng 1 năm ấy, Shadow of a Doubt đã công chiếu, gợi lại cho Hitchcock những kỷ niệm đẹp khi làm phim. Trong phim, Charlotte "Charlie" Newton (Teresa Wright) nghi ngờ người chú yêu quý Charlie Oakley (Joseph Cotten) của mình là một tên sát nhân hàng loạt. Hitchcock đã bấm máy ghi hình ở rất nhiều nơi, lần này là ở thành phố Santa Rosa phía Bắc California.

Tại 20th Century Fox, Hitchcock tiến cận John Steinbeck để bàn về ý tưởng làm một bộ phim ghi lại trải nghiệm của những người sống sót sau vụ tấn công bằng tàu U-boat của Đức. Steinbeck bắt đầu viết kịch bản cho dự án phim Lifeboat (1944) về sau. Tuy nhiên, Steinbeck không hài lòng với bộ phim và yêu cầu xóa tên ông khỏi phần danh đề, song chẳng ích gì. Ý tưởng này được Harry Sylvester viết lại thành một truyện ngắn và xuất bản trên tạp chí Collier's vào năm 1943. Những phân cảnh hành động được ghi hình trên một chiếc thuyền nhỏ trong bể nước của phim trường. Phim trường làm nảy sinh vấn đề vai khách mời truyền thống của Hitchcock; vấn đề được giải quyết bằng cách để hình ảnh của Hitchcock xuất hiện trên một tờ báo mà William Bendix đang đọc trên thuyền, in hình vị đạo diễn trong một quảng cáo trước và sau "Reduco-Obesity Slayer". Ông kể với Truffaut vào năm 1962:Bữa tối điển hình của Hitchcock trước khi giảm cân là gà nướng, giăm bông luộc, khoai tây, bánh mì, rau, gia vị, salad, món tráng miệng, một chai rượu vang và chút rượu mạnh. Để giảm cân, chế độ ăn kiêng của ông gồm cà phê đen cho bữa sáng và bữa trưa, bít tết và salad cho bữa tối, nhưng thật khó để duy trì; Donald Spoto ghi chép rằng cân nặng của ông dao động đáng kể trong hơn 40 năm tới. Cuối năm 1943, mặc dù đã giảm cân, Công ty Bảo hiểm Occidental của Los Angeles từ chối đơn xin bảo hiểm nhân thọ của ông.

Những phim phi hư cấu thời hậu chiến

Hitchcock trở lại Anh trong một chuyến thăm kéo dài từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1944. Trong lúc ấy ông làm hai bộ phim ngắn tuyên truyền là Bon Voyage (1944) và Aventure Malgache (1944) cho Bộ Thông tin. Vào tháng 6 và tháng 7 năm 1945, Hitchcock làm "cố vấn nghiên cứu" cho bộ phim tài liệu về Holocaust sử dụng những trích đoạn của Khối Đồng Minh về công cuộc giải phóng những trại tập trung của Đức Quốc xã. Bộ phim được thực hiện ở Luân Đôn và sản xuất bởi Sidney Bernstein của Bộ Thông tin (ông là bạn của Hitchcock và đã đưa vị đạo diễn lên tàu). Lúc đầu phim được dự kiến chiếu cho người Đức xem, nhưng chính phủ Anh lại thấy quá đau thương khi chiếu phim cho một người dân bị sốc hậu chiến. Thay vào đó, năm 1952 tác phẩm được chuyển từ kho lưu trữ phim của Văn phòng chiến tranh Anh sang Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc của Luân Đôn và vẫn chưa được phát hành cho đến năm 1985, khi một bản dựng phim được phát sóng thành một tập trong chương trình Frontline của Mỹ dưới nhan đề mà Bảo tàng chiến tranh Đế quốc đặt là: Memory of the Camps. Phiên bản dài đấy đủ của bộ phim là German Concentration Camps Factual Survey đã được phục chế bởi các học giả của Bảo tàng chiến tranh Đế quốc vào năm 2014.

Những năm hậu chiến ở Hollywood: 1945–1953

Những bộ phim cuối của Selznick

thumb|left|[[Gregory Peck và Ingrid Bergman trong phim Spellbound (1945)]] Hitchcock hợp tác cùng David Selznick một lần nữa trong tác phẩm Spellbound (1945) mà ông làm đạo diễn; phim khám phá đề tài phân tâm học và có một chuỗi cảnh giấc mơ do Salvador Dalí thiết kế. Chuỗi cảnh giấc mơ xuất hiện trong ngắn hơn 10 phút so với hình dung ban đầu; Selznick đã biên tập chuỗi cảnh này để giúp nó "phát huy" hiệu quả hơn. Gregory Peck thủ vai Tiến sĩ Anthony Edwardes bị mất trí nhớ phải tìm đến sự điều trị của Tiến sĩ phân tích Peterson (Ingrid Bergman), rồi cô phải lòng anh trong lúc cố tìm hiểu về quá khứ bị kìm nén của anh. Hai cảnh quay theo góc nhìn thứ nhất được thực hiện bằng cách xây dựng một cánh tay gỗ lớn (vật này dường như thuộc về nhân vật mà góc máy đặt điểm nhìn) và cầm những đạo cụ ngoại cỡ: một ly sữa to bằng chiếc xô và một khẩu súng gỗ lớn. Nhằm tăng thêm tác động mới lạ, cảnh bắn súng cao trào được tô màu đỏ thủ công trên vài bản sao của bộ phim đen trắng. Phần nhạc nền do Miklós Rózsa sáng tác có sử dụng nhạc cụ theremin, một vài đoạn nhạc sau đó được tác giả chuyển thể thành bản nhạc Piano Concerto Op. 31 (1967) của Rozsa chơi trên piano và dàn nhạc.

Bộ phim đề tài gián điệp Notorious là tác phẩm kế tiếp công chiếu vào năm 1946. Hitchcock bảo François Truffaut rằng Selznick đã bán ông, Ingrid Bergman, Cary Grant và kịch bản của Ben Hecht cho hãng RKO Radio Pictures dưới dạng "trọn gói" với giá 500.000 đô la Mỹ () do kinh phí làm phim Duel in the Sun (1946) của Selznick bị đội lên. Notorious có sự tham gia diễn xuất của Bergman và Grant (cả hai người hợp tác lâu năm với Hitchcock) và có cốt truyện nói về Đức Quốc Xã, urani và Nam Mỹ. Hành động sử dụng urani làm chi tiết dẫn dắt cốt truyện đã làm ông bị đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Cục Điều tra Liên bang trong thời gian ngắn. Theo lời Patrick McGilligan, đâu đó vào khoảng tháng 3 năm 1945, Hitchcock và Hecht đã tham vấn Robert Millikan của Viện Công nghệ California về việc phát triển một quả bom urani. Selznick phàn nàn rằng khái niệm làm phim là "khoa học viễn tưởng", chỉ để đối sánh với tin tức về vụ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki tại Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945.

Transatlantic Pictures

thumb|Một góc máy điển hình trích từ phim [[Rope (phim)|Rope (1948) với James Stewart quay lưng về phía góc máy đang ghi hình liên tục|alt=A typical scene from Rope showing James Stewart]] Hitchcock đã lập nên công ty sản xuất phim độc lập mang tên Transatlantic Pictures cùng với người bạn Sidney Bernstein. Ông làm hai bộ phim với Transatlantic, một trong số đó là tác phẩm phim màu đầu tiên của ông. Với Rope (1948), Hitchcock đã được trải nghiệm dẫn dắt sự hồi hộp trong một môi trường hạn chế, giống như ông từng làm với Lifeboat trước kia. Phim có số lượng cảnh quay liên tục rất hạn chế, nhưng tác phẩm thực sự được ghi hình trong 10 cảnh (thời lượng từ 4- đến 10 phút mỗi cảnh); thời lượng 10 phút của phim là thời lượng dài nhất mà vỏ cuộn ghi hình phim có thể chứa lúc bấy giờ. Một vài đoạn chuyển cảnh giữa các cuộn phim bị ẩn mất do một vật thể tối che mất toàn bộ khung hình trong chốc lát. Hitchcock đã sử dụng những điểm ấy để giấu đi đoạn cắt và bắt đầu quay cảnh kế tiếp với máy quay đặt cùng vị trí. Phim có sự tham gia diễn xuất của James Stewart trong vai chính và là bộ đầu tiên trong 4 phim mà Stewart làm với Hitchcock. Phim được lấy cảm hứng từ vụ án Leopold và Loeb ở thập niên 1920. Các đánh giá từ giới phê bình dành cho bộ phim lúc ấy là trái chiều.

Under Capricorn (1949), lấy bối cảnh nước Úc thế kỉ 19, cũng sử dụng những cú máy ghi hình dài trong ngắn hạn, nhưng ở tần suất hạn chế hơn. Ông một lần nữa dùng màu trong tác phẩm này, rồi quay trở về với màu đen-trắng trong nhiều năm. Transatlantic Pictures ngừng hoạt động sau khi làm hai bộ phim cuối. Hitchcock đã quay phim Stage Fright (1950) tại xưởng phim Elstree ở Anh, nơi ông từng làm việc theo hợp đồng cho British International Pictures nhiều năm trước. Ông đã ghép đôi Jane Wyman (một trong những minh tinh nổi tiếng nhất của Warner Bros. lúc ấy) với nữ diễn viên biệt xứ người Đức Marlene Dietrich và sử dụng nhiều diễn viên Anh tên tuổi như Michael Wilding, Richard Todd và Alastair Sim. Đây là tác phẩm đúng nghĩa đầu tien mà Hitchcock làm cho Warner Bros. – đơn vị từng nắm quyền phân phối RopeUnder Capricorn, bởi Transatlantic Pictures đang gặp khó khăn về tài chính.

Tác phẩm giật gân Strangers on a Train (1951) của ông dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của Patricia Highsmith. Hitchcock đã kết hợp nhiều yếu tố từ những bộ phim trước của ông. Ông đã mời Dashiell Hammett viết thoại, nhưng Raymond Chandler nhận việc này rồi rời đi do bất đồng với vị đạo diễn. Trong phim, hai người đàn ông tình cờ gặp nhau, một người trong số họ đoán ra phương thức giết người hết sức rõ ràng; anh đề xuất rằng hai người (mỗi bên đều muốn kết liễu kẻ còn lại) nên thực hiện phương thực giết người của người kia. Farley Granger vào vai nạn nhân vô tội của âm mưu, còn Robert Walker (trước đây nổi tiếng với các vai "cậu bé hàng xóm") là người thủ vai phản diện. Phim I Confess (1953) lấy bối cảnh tại Quebec với Montgomery Clift hóa thân làm một linh mục Cơ đốc giáo.

Những năm hoàng kim: 1954–1964

Dial M for MurderRear Window

thumb|left|alt= Still image from the film Read Window featuring Stewart and Kelly|[[James Stewart và Grace Kelly trong phim Rear Window (1954)]] Kế tiếp I Confess là ba tác phẩm phim màu có sự tham gia của Grace Kelly: Dial M for Murder (1954), Rear Window (1954) và To Catch a Thief (1955). Trong Dial M for Murder, Ray Milland thủ vai phản diện cố ám sát người vợ không chung thủy của mình (Kelly) nhằm chiếm đoạt tiền của cô. Cô giết tên thích khách thuê trong lúc tự vệ, vì thế Milland thao túng bằng chứng để làm vụ việc giống như giết người. Tình nhân của cô, Mark Halliday (Robert Cummings) và Thanh tra cảnh sát Hubbard (John Williams) là những người cứu cô khỏi bị hành quyết. Hitchcock đã thử nghiệm kỹ thuật ghi hình 3D với Dial M for Murder.

Hitchcock chuyển tới Paramount Pictures và bấm máy thu hình Rear Window (1954), một lần nữa có sự góp mặt của James Stewart và Grace Kelly, cũng như Thelma Ritter và Raymond Burr. Nhân vật của Stewart là một nhiếp ảnh gia tên Jeff (dựa trên Robert Capa) tạm thời phải dùng xe lăn. Vì buồn chán, anh bắt đầu quan sát hàng xóm của mình qua sân trong, rồi đinh ninh rằng một trong số họ (Raymond Burr) là người sát hại vợ anh. Sau cùng Jeff cố thuyết phục ông bạn thân cảnh sát (Wendell Corey) và cô bạn gái (Kelly). Giống như với LifeboatRope, các nhân vật chính được miêu tả trong những góc nhà hẹp hoặc chật chội, trong trường hợp này là căn hộ phòng thu của Stewart. Hitchcock sử dụng góc máy quay cận cảnh mặt của Stewart để thẻ hiện những phản ứng của nhân vật mà anh đóng, "từ thói nhìn trộm kỳ cục hướng vào hàng xóm của mình cho đến nỗi khiếp đảm bất lực khi nhìn Kelly và Burr trong căn hộ của phản diện".

Alfred Hitchcock Presents

thumb|[[Pat Hitchcock với cô con gái Terry và chồng Joseph O'Connell, Alma Reville, Mary Alma O'Connell, Alfred Hitchcock (phía trái dưới), vào khoảng 1955–1956]] Từ năm 1955 đến 1965, Hitchcock là người dẫn chương trinh truyền hình Alfred Hitchcock Presents. Với cách nói kỳ quặc, khiếu hài hước và hình ảnh biểu tượng của vị đạo diễn, chương trình đã biến Hitchcock thành nhân vật nổi tiếng. Chuỗi tiêu đề của chương trình là một bức hình biếm họa vẽ tối giản lược sử của ông (do chính tay ông vẽ; gồm chỉ 9 nét vẽ), rồi cái bóng thật của ông in đè lên. Nhạc hiệu của chương trình là bài Funeral March of a Marionette của nhà soạn nhạc người Pháp Charles Gounod (1818–1893).

Những phần giới thiệu của ông luôn mang nét hài hước gượng, chẳng hạn như miêu tả một vụ hành quyết nhiều người gần đây bị cản trở bởi chỉ có một chiếc ghế điện, trong khi hai chiếc ghế kia ghi ký hiệu "Hai ghế—không chờ đợi!" Ông đã đạo diễn 18 tập của sê-ri, được phát sóng từ 1955 đến 1965. Chương trình trở thành The Alfred Hitchcock Hour vào năm 1962, và NBC là đơn vị phát sóng tập cuối vào ngày 10 tháng 5 năm 1965. Ở thập niên 1980, một phiên bản mơi của Alfred Hitchcock Presents đã được sản xuất để chiếu trên màn ảnh nhỏ, sử dụng những phần giới thiệu gốc của Hitchcock dưới dạng có màu. Cùng năm ấy, bộ phim thứ ba của ông với Grace Kelly, To Catch a Thief được công chiếu; phim lấy bối cảnh ở Côte d’Azur với sự tham gia diễn xuất của Kelly và Cary Grant. Grant thủ vai tên trộm đã giải nghệ John Robie; anh trở thành nghi phạm chính của hàng loại vụ cướp tại Côte d’Azur. Một cô gái sở hữu quyền thừa kế và ưa những tình huống ly kỳ (do Kelly thủ vai) phỏng đoán danh tiếng thật của anh và cố quyến rũ anh. "Mặc cho chênh lệch tuổi tác rõ ràng giữa Grant và Kelly cùng một cốt truyện nhẹ nhàng, kịch bản dí dỏm (chứa nhiều hàm ý kép) và diễn xuất ôn hậu đã giúp phim gặt hái thành công về mặt thương mại." Đây là phim cuối của Hitchcock với Kelly; cô kết hôn với Công tuóc Rainier của Monaco vào năm 1956 và chấm dứt sự nghiệp điện ảnh của mình sau đó. Tiếp đó Hitchcock làm lại bộ phim của chính mình năm 1934 The Man Who Knew Too Much với bản phim năm 1956. Lần này tác phẩm có sự tham gia diễn xuất của James Stewart và Doris Day – người thể hiện bài hát chủ đề "Que Sera, Sera"; ca khúc đã thắng giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất và trở thành một bài hit lớn. Họ hóa thân vai một cặp đôi có con trai bị bắt cóc nhằm ngăn họ can thiệp vào một vụ ám sát. Giống như bản phim năm 1934, đoạn cao trào diễn ra tại Royal Albert Hall.

The Wrong Man (1956) – phim cuối của Hitchcock với Warner Bros. là một tác phẩm đen–trắng không quá sôi nổi dựa trên một trường hợp nhầm lẫn danh tính có thật từng được đưa tin trên tạp chí Life vào năm 1953. Đây là bộ phim duy nhất của Hitchcock có sự tham gia của Henry Fonda, anh thủ vai một nhạc sĩ của câu lạc bộ Stork Club bị nhận nhầm với một tên trộm rượu, rồi bị bắt và xét xử vì tội cướp, còn vợ anh (Vera Miles) suy sụp tinh thần vì quá căng thẳng. Hitchcock nói với Truffaut rằng nỗi sợ hãi cảnh sát cả đời ông đã thu hút ông với đề tài này và vị đạo diễn còn lồng ghép nỗi sợ ấy vào nhiều cảnh phim.

thumb|alt=Ảnh trích từ phim Vertigo|[[Kim Novak đứng cạnh cây Cầu Cổng Vàng trong phim Vertigo (1958)]]

Trong lúc chỉ đạo các tập phim của Alfred Hitchcock Presents ở mùa hè năm 1957, Hitchcock phải nhập viện vì bị thoát vị và sỏi mật, nên buộc phải cắt bỏ túi mật. Sau ca phẫu thuật thành công, ông ngay lập tức trở lại làm việc để chuẩn bị cho dự án kế tiếp. Vertigo (1958) một lần nữa có sự tham gia của James Stewart, bên cạnh Kim Novak và Barbara Bel Geddes. Vị đạo diễn từng muốn Vera Miles nhận vai chính song cô lại đang mang bầu. Ông chia sẻ với Oriana Fallaci: "Tôi đã mời cô ấy một vai lớn, cơ hội trở thành một quý cô tóc vàng xinh đẹp thông minh, một nữ diễn viên thực thụ. Chúng tôi đã chi hàng đồng đô-la cho vai ấy, và thật tệ là cô ấy lại mang bầu. Tôi ghét phụ nữ bầu bí, bởi sau đó họ có con nhỏ."

Trong phim Vertigo, Stewart thủ vai Scottie, một cựu thanh tra cảnh sát bị mắc chứng sợ độ cao, trở nên ám ảnh với một người phụ nữ mà anh được thuê để theo dõi (Novak). Nỗi ám ảnh của Scottie dẫn tới bi kịch, và lần này Hitchcock không lựa chọn cái kết có hậu. Một vài nhà phê bình, trong đó có Donald Spoto và Roger Ebert nhất trí rằng Vertigo là bộ phim riêng tư và mang tính khám phá nhất của vị đạo diễn, đối phó với những nỗi ám ảnh kiểu Pygmalion của một người đàn ông về việc biến một phụ nữ thành người mà anh ta thèm khát. Vertigo khám phá trần trụi hơn và sâu sắc hơn mối quan tâm của ông về liên hệ giữa tình dục và cái chết, hơn bất kì tác phẩm nào khác trong sự nghiệp của ông.

Vertigo có sử dụng kĩ thuật ghi hình do Irmin Roberts phát triển (thường được gọi là dolly zoom), về sau được nhiều nhà làm phim sao chép. Bộ phim có buổi chiếu ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế San Sebastián, và Hitchcock giật giải Silver Seashell. Vertigo được xem là một tác phẩm điện ảnh kinh điển, song phim lại thu về những đánh giá trái chiều và doanh thu bán vé nghèo nàn lúc bấy giờ; nhà phê bình từ tạp chí Variety nhận định rằng phim "quá chậm và quá dài". Bosley Crowther của tờ New York Times thì thấy phim "rất chi là gượng gạo", nhưng dành lời khen cho khâu diễn xuất và phần chỉ đạo của Hitchcock. Tác phẩm còn đánh dấu lần hợp tác cuối giữa Stewart và Hitchcock. Trong cuộc bầu chọn của Sight & Sound năm 2002, phim chỉ xếp sau Citizen Kane (1941); 10 năm sau, cũng chính bởi ấn phẩm này, các nhà phê bình đã lựa chọn tác phẩm là bộ phim điện ảnh hay nhất từng được làm ra. Tạp chí Time ví bộ phim là "thể hiện ổn và hết sức giải trí".

Psycho (1960) có thể xem là bộ phim nổi tiếng nhất của Hitchcock. Dựa trên cuốn tiểu thuyết Psycho ra mắt năm 1959 của Robert Bloch (lấy cảm hứng từ vụ án Ed Gein), phim được sản xuất với kinh phí eo hẹp là 800.000 đô la Mỹ () và ghi hình màu đen-trắng trên một phim trường sơ sài sử dụng tổ ê-kíp từ Alfred Hitchcock Presents. Cảnh bạo lực trong nhà tắm chưa từng có, cái chết sớm của nhân vật nữ chính, và những sinh mạng vô tội bị tước đoạt bởi một tên sát nhân lúng túng đã trở thành những tiêu chuẩn của một dòng phim kinh dị mới. Tác phẩm rất được khán giả yêu thích, với hàng dài người xếp hàng ngoài rạp để chờ đọi buổi chiếu kế tiếp. Tác phẩm phá các kỷ lục phòng vé tại Liên hiệp Anh, Pháp, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Canada, đồng thời gặt hái thành công nhất định ở Úc trong một thời gian ngắn.

Psycho là phim ăn khách nhất trong sự nghiệp của Hitchcock, và cá nhân ông đã bỏ túi tới 15 triệu đô la Mỹ (tương đương $ triệu năm ). Sau đó ông sử dụng bản quyền với Psycho và chương trình truyền hình tuyển tập của mình để đổi lấy 150.000 cổ phiếu của MCA, biến ông trở thành cổ đông lớn thứ ba và ông chủ của chính mình tại Universal (ít nhất về mặt lý thuyết), dù cho không ngăn được hãng phim can thiệp. Truffaut bán buổi phỏng vấn vì đối với ông, Hitchcock rõ ràng không đơn giản là một đối tượng giải trí sản xuất đại trà mà giới truyền thống Mỹ muốn biến ông trở thành. Truffaut ghi chép rằng hiển nhiên từ những bộ phim của Hitchcock, vị đạo diễn đã "chú tâm nhiều đến tiềm năng nghệ thuật của bản thân hơn bất cứ đồng nghiệp nào khác của ông". Ông ví buổi phỏng vấn là "Oedipus' thảo luận với nhà tiên tri".

The Birds

thumb|left|Trailer của phim [[The Birds (phim)|The Birds (1963), trong đó Hitchcock bàn về cách đối xử của nhân loại với "những người bạn có lông vũ của chúng ta".]] Nhà học giả điện ảnh Peter William Evans viết rằng The Birds (1963) và Marnie (1964) được xem là những "tuyệt tác không thể phủ nhận". Hitchcock từng định ghi hình Marnie trước, và vào tháng 3 năm 1962 có tin đồn rằng Grace Kelly (Công nương Grace của Monaco từ năm 1956) sẽ đổi ý giải nghệ để quay lại đóng phim. Khi Kelly yêu cầu Hitchcock hoãn Marnie đến năm 1963 hoặc 1964, ông đã tuyển Evan Hunter (tác giả cuốn The Blackboard Jungle năm 1954) để phát triển kịch bản dựa trên truyện ngắn "The Birds" (1952) của Daphne du Maurier, được Hitchcock tái xuất bản trong cuốn My Favorites in Suspense (1959) của mình. Ông thuê Tippi Hedren thủ vai chính. Đây là vai diễn đầu tiên của cô; nữ diễn viên từng làm người mẫu ở New York thì Hitchcock nhìn thấy cô vào tháng 10 năm 1961 trong một đoạn quảng cáo Sego (một loại đồ uống ăn kiêng) trên kênh truyền hình NBC: "Tôi ký kết với cô ấy bởi cổ là một mỹ nhân kiểu cổ điển. Phim ảnh không còn có hợ nữa. Grace Kelly là người cuối cùng." Không cần giải thích, ông khẳng định rằng họ của cô được viết trong dấu ngoặc kép duy nhất: 'Tippi'.

Trong phim The Birds, một cô gái trẻ hoạt giao tên Melanie Daniels gặp gỡ luật sư Mitch Brenner (Rod Taylor) trong một cửa hàng bán chim cảnh; Jessica Tandy thủ vai người mẹ có tính chiếm hữu của anh. Hedren ghé thăm anh ở Bodega Bay (nơi ghi hình The Birds) Bạn diễn của Hedren trong phim Marnie là Diane Baker kể lại: "Đối với tôi thì chẳng có gì kinh khủng hơn việc đến phim trường đó và thấy cô ấy từng bị đối xử ra sao." Trong lúc ghi hình cảnh tấn công trên gác mái (mất tới một tuần ghi hình), cô bị đặt ở một căn phòng trong lồng, cùng lúc đó hai người đàn ông đeo găng tay bảo vệ dài đến khuỷu tay ném những chú chim sống vào cô. Cho đến cuối tuần, nhằm ngăn đàn chim bay khỏi cô quá sớm, chân của mỗi con bị buộc sợi nylon nối đến các sợi dây thun may bên trong quần áo cô. Nữ diễn viên suy sụp sau khi một chú chim cắt mất mí mắt dưới của cô, và công đoạn ghi hình bị tạm dừng theo chỉ định của các bác sĩ.

Marnie

thumb|Trailer phim [[Marnie (phim)|Marnie (1964)]] Tháng 6 năm 1962, Grace Kelly thông báo cô đã quyết định từ chối xuất hiện trong phim Marnie (1964). Hedren đã ký một bản hợp đồng độc quyền dài 7 năm, kèm mức đãi ngộ 500 đô la/tuần với Hitchcock vào tháng 10 năm 1961, và vị đạo diễn quyết định tuyển cô vào vai chính đóng cặp cùng Sean Connery. Năm 2016, không chỉ miêu tả diễn xuất của Hedren là "một trong những [màn thể hiện] xuất sắc nhất lịch sử điện ảnh", Richard Brody gọi bộ phim là một "câu chuyện về bạo hành tình dục" gây tổn thương cho nhân vật mà Hedren diễn: "Đơn giản thì bộ phim thật bệnh hoạn, và sỡ dĩ là vì Hitchcock cũng bệnh hoạn. Ông ấy đã chịu khổ sở cả cuộc đời mình vì ham muốn tình dục mãnh liệt, chịu khổ vì thiếu thỏa mãn nó, chịu khổ vì không thể biến khả năng tưởng tượng thành hiện thực, rồi bắt đầu và hiện thực hóa nó bằng con đường nghệ thuật của mình." Một bài đánh giá của tờ New York Times nhận xét tác phẩm là "phim đáng thất vọng nhất [của Hitchcock] trong nhiều năm", chỉ ra Hedren và Connery thiếu kinh nghiệm diễn xuất, một kịch bản nghiệp dư và "những tấm màn bối cảnh bằng bìa các-tông giả quá rõ".

Trong phim, Marnie Edgar (Hedren) trộm mất 10.000 đô la Mỹ từ chủ của mình và bỏ trốn. Cô nộp đơn xin việc tại công ty của Mark Rutland (Connery) ở in Philadelphia và cũng trộm đồ từ nơi đó. Trong quá khứ, cô bị hoảng loạn trong một cuộc tấn công khi trời giông bão và mắc chứng sợ màu đỏ. Mark theo dõi cô và hăm dạo tống tiền để ép cô cưới anh. Cô giải thích rằng mình không muốn bị động chạm, song trong một "chuyến trăng mật", Mark nổi cơn thú tính cưỡng hiếp cô. Marnie và Mark phát hiện rằng mẹ của Marnie từng là điếm lúc Marnie còn bé; một ngày nọ trong lúc bà đang xô xát với một khách hàng giữa lúc trời giông bão—bà mẹ tin rằng vị khách đã cố gạ gẫm Marnie—và thế là Marnie sát hại vị khách đó để cứu mẹ mình. Cô chữa khỏi nỗi sợ hãi sau khi nhớ lại những chuyện đã xảy ra, rồi quyết định ở cùng Mark. nhỏ|Nhà Hitchcock gặp gỡ Đệ nhất phu nhân [[Pat Nixon và cô con gái đầu Julie Nixon Eisenhower vào năm 1969]] Hitchcock đã nhắc nhà quay phim Robert Burks rằng máy ghi hình phải được đặt gần Hedren nhất có thể khi anh quay cận mặt nữ diễn viên. Evan Hunter (nhà biên kịch của The Birds và cũng chắp bút viết kịch bản Marnie) giải thích với Hitchcock rằng nếu Mark yêu Marnie thì anh sẽ an ủi cô chứ không phải cưỡng hiếp. Song Hitchcock đáp lại: "Evan, khi anh quan hệ tình dục với cô ta, tôi muốn cái máy quay ấy dí vào mặt cổ!" Khi Hunter nộp hai bản kịch bản (trong đó một cái không có cảnh cưỡng hiếp) Hitchcock liền thay thế anh bằng Jay Presson Allen.

Những năm cuối đời: 1966–1980

Những bộ phim cuối

Sức khỏe suy yếu làm cho năng suất làm phim của Hitchcock tụt giảm trong hai thập kỷ cuối đời ông. Cây viết tiểu sử Stephen Rebello cho biết hãng Universal đã ép vị đạo diễn làm hai phim là Torn Curtain (1966) và Topaz (1969), trong đó Topaz dựa trên một cuốn tiểu thuyết của Leon Uris, lấy bối cảnh một phần ở Cuba. Cả hai phim đều thuộc thể loại gián điệp giật gân với đề tài liên quan tới Chiến tranh Lạnh. Torn Curtain (với sự góp mặt của Paul Newman và Julie Andrews) đã sớm chấm dứt quan hệ 12 năm hợp tác giữa Hitchcock và Bernard Herrmann theo cách đầy chua xót. Hitchcock không hài lòng với phần nhạc nền của Herrmann và thay thế ông bằng John Addison, Jay Livingston và Ray Evans. Sau khi phát hành, Torn Curtain thất bại ở thị trường phòng vé, còn Topaz bị giới phê bình lẫn hãng phim ghét bỏ.

thumb|upright|left|alt=Image of Hitchcock seated during the filming of Family Plot| Hitchcock công tác tại [[Family Plot, San Francisco, hè năm 1975.]] Hitchcock trở lại Liên hiệp Anh để làm bộ phim áp chót của sự nghiệp mang tên Frenzy (1972), dựa trên tiểu thuyết Goodbye Piccadilly, Farewell Leicester Square (1966). Sau hai phim hoạt động gián điệp, cốt truyện của phim đánh dấu màn trở lại với dòng phim sát nhân-giật gân. Richard Blaney (Jon Finch), một tay phục vụ quán rượu hoạt bát với tiến sử bộc phát nỗi giận dữ, trở thành nghi phạm chính trong vụ điều tra "Những sát nhân bằng ca vát", thực sự là do bạn của anh là Bob Rusk (Barry Foster). Lần này, Hitchcock làm cho nạn nhân và phản diện tương đồng nhau, thay vì đối địch như trong phim Strangers on a Train.

Trong phim Frenzy, Hitchcock cho phép khỏa thân lần đầu tiên. Hai cảnh phim chiếu những người phụ nữ khỏa thân, một trong số họ bị cưỡng hiếp và bóp cổ; Donald Spoto cho rằng bóp cổ là "một trong những ví dụ gây khó chịu nhất về vụ giết người chi tiết trong lịch sử điện ảnh". Cả hai diễn viên là Barbara Leigh-Hunt và Anna Massey từ chối đóng trong những cảnh đó, vì thế những người mẫu được sử dụng thay thế. Những cây viết tiểu sử lưu ý rằng Hitchcock đã luôn thúc đấy những hạn chế về kiểm duyệt phim, thường cố đánh lừa Joseph Breen (giám đốc của Motion Picture Production Code). Hitchcock sẽ đưa những lời bóng gió bất lịch sự bị cấm kiểm duyệt cho đến giữa những năm 1960. Tuy nhiên Patrick McGilligan ghi chép rằng Breen và những người khác thường nhận ra cài cắm những chi tiết như vậy và thực sự thấy thích thú, cũng như bị phấn khích tột độ bởi "những kết luận không tránh khỏi được" của Hitchcock".

Family Plot (1976) là phim cuối của Hitchcock. Tác phẩm xoay quanh những cuộc đào tẩu của nhà tâm linh lừa đảo "Madam" Blanche Tyler (đóng bởi Barbara Harris) và tình nhân kiêm tài xế taxi của cô Bruce Dern, họ kiếm sống bằng năng lực giả tạo của cô. Dù Family Plot dựa trên cuốn tiểu thuyết The Rainbird Pattern (1972) của Victor Canning, màu sắc của nguyên tác lại có phần nham hiểm hơn. Nhà biên kịch Ernest Lehman lúc đầu là người viết kịch bản phim dưới tiêu đề sản xuất là Deception, với một màu sắc đen tối song bị Hitchcock ép phải chuyển sang màu sắc vừa nhẹ nhàng, vừa hài hước hơn, rồi cuối cùng tựa phim được chọn là Family Plot.

Phong tước hiệp sĩ và từ trần

thumb|Ảnh chụp Hitchcock khoảng năm 1972 của nhiếp ảnh gia Jack Mitchell. Cho đến cuối đời, Hitchcock đang thực hiện kịch bản cho tác phẩm giật gân gián điệp mang tên The Short Night, hợp tác với James Costigan, Ernest Lehman và David Freeman. Mặc cho đã đi vào công đoạn sản xuất sơ bộ, song phim chưa bao giờ được ghi hình. Sức khỏe Hitchcock tụt giảm và ông lo lắng cho vợ mình vì thấy bà bị đột quỵ. Kịch bản phim sau cùng được xuất bản trong cuốn sách The Last Days of Alfred Hitchcock (1999) của Freeman.

Dẫu từng từ chối tước CBE vào năm 1962, Hitchcock đã được phong làm Hiệp sĩ Đế chế Anh (KBE) trong lễ Phong tước năm mới 1980. Do quá yếu để đi tới Luân Đôn (ông đã đeo một chiếc máy điều hòa nhịp tim và được chích cortisone để chữa bệnh viêm khớp), nên vào ngày 3 tháng 1 năm 1980, tổng lãn

👁️ 7 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sir Alfred Joseph Hitchcock** (13 tháng 8 năm 1899 – 29 tháng 4 năm 1980) là một đạo diễn, nhà biên kịch và nhà sản xuất phim người Anh. Ông là một trong những nhà
**_Psycho_** (tựa tiếng Việt: _Kẻ tâm thần_) là bộ phim kinh dị tâm lý sản xuất năm 1960 của đạo diễn nổi tiếng Alfred Hitchcock. Phim dựa trên kịch bản của Joseph Stefano được chuyển
**_Rear Window_** (1954) là phim ly kỳ của đạo diễn Alfred Hitchcock, biên kịch John Michael Hayes, chuyển thể từ truyện ngắn năm 1942 của Cornell Woolrich, "It Had to Be Murder". Các diễn viên
**Vertigo** có thể có nghĩa là: * Vertigo (y học), một triệu chứng chóng mặt * _Vertigo_ (phim), một bộ phim của đạo diễn Alfred Hitchcock * _Vertigo_ (sách), cuốn tiểu thuyết của tác giả
**7032 Hitchcock** (1994 VC2) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 3 tháng 11 năm 1994 bởi Yoshisada Shimizu và Yoshisada Shimizu ở Đài thiên văn Nachi-Katsuura. Nó được đặt
**_Vertigo_** là phim tâm lý ly kỳ của Mỹ năm 1958, đạo diễn Alfred Hitchcock, diễn viên chính James Stewart và Kim Novak, với sự tham gia của Barbara Bel Geddes. Biên kịch Alec Coppel
**_Dial M for Murder_** là một bộ phim ly kỳ giật gân năm 1954 của Mỹ sản xuất được chuyển thể từ một vở kịch sân khấu khá thành công, đạo diễn bởi Alfred Hitchcock
**Alfred Tarski** (; 14 tháng 1 năm 1901 – 26 tháng 10 năm 1983), tên khai sinh **Alfred Teitelbaum,** là một nhà logic học và toán học mang quốc tịch Ba Lan-Mỹ gốc Ba Lan-Do
**Saul Bass** (; 5 tháng 8 năm 1920 – 25 tháng 4 năm 1996) là một nhà thiết kế đồ hoạ và nhà làm phim đoạt giải Oscar, được biết đến nhiều nhất với các
**Ba chàng thám tử trẻ (**_Tiếng Anh:The Three Investigator_**)** là một bộ truyện trinh thám dài nhiều tập dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên của Hoa Kỳ được xuất bản lần đầu tiên với
**James Maitland Stewart** (20 tháng 5 năm 1908 – 2 tháng 7 năm 1997), thường được biết đến với tên **Jimmy Stewart**, là một nam diễn viên điện ảnh, sân khấu người Mỹ, là một
**Sir Thomas Sean Connery** (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1930 - mất ngày 31 tháng 10 năm 2020) là một cựu diễn viên và nhà sản xuất phim người Scotland. Ông được biết đến
**_Birdemic: Shock and Terror_** (thường được gọi ngắn là **_Birdemic_**) là một bộ phim độc lập, thuộc thể loại lãng mạn, kinh dị phát hành năm 2008 do James Nguyễn viết kịch bản, đạo diễn,
**Joan de Beauvoir de Havilland** (22 tháng 10 năm 1917 – 15 tháng 12 năm 2013), nghệ danh **Joan Fontaine**, là nữ diễn viên người Mỹ gốc Anh. Fontaine bắt đầu sự nghiệp trên sân
**Norman Bates** là một nhân vật hư cấu được tạo ra bởi nhà văn người Mỹ Robert Bloch như một nhân vật phản diện chính trong tiểu thuyết tâm lý kinh dị ông viết năm
**Liên hoan phim Cannes** (tiếng Pháp: _le Festival international du film de Cannes_ hay đơn giản là _le Festival de Cannes_) là một trong những liên hoan phim có uy tín nhất thế giới, được
thumb|[[Max Schreck vai Bá tước Orlok trong bộ phim _Nosferatu_ (1922). Nhà phê bình kiêm nhà sử học Kim Newman cho rằng đây là bộ phim thiết lập khuôn mẫu cho phim kinh dị.]] thumb|Chiếc
**The Birds** là một bộ phim kinh dị năm 1963 của Mỹ được đạo diễn và sản xuất bởi Alfred Hitchcock, dựa trên câu chuyện cùng tên năm 1952 của Daphne du Maurier. Nó tập
**_Music to Be Murdered By_** là album phòng thu thứ 11 của rapper người Mỹ Eminem. Album được Aftermath Entertainment, Interscope Records và Shady Records phát hành vào ngày 17 tháng 1 năm 2020 mà
**Hilton A. Green** (3 tháng 3 năm 1929 - 2 tháng 10 năm 2013), hay **Hilton Green**, là một nhà sản xuất phim và trợ lý đạo diễn người Mỹ. Ông nổi tiếng với vai
**Ingrid Bergman** (29 tháng 8 năm 1915 – 29 tháng 8 năm 1982) là một diễn viên người Thụy Điển, bà đã đóng vai chính trong nhiều bộ phim Âu-Mỹ, phim truyền hình và kịch.
thumb|[[Trần Mộc Thắng, đạo diễn của điện ảnh Hồng Kông.]] **Đạo diễn** là người chịu trách nhiệm chỉ đạo quá trình thực hiện một tác phẩm nghe nhìn, thường là điện ảnh hoặc truyền hình.
**Giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất** (tiếng Anh: **Academy Award for Best Director**) là hạng mục của Giải Oscar trao cho cá nhân được các thành viên Viện Hàn lâm Khoa học và
Một **plot twist** (tạm dịch: _điểm ngoặt_ hoặc _cú ngoắt_) là một sự thay đổi triệt để theo hướng hoặc kết quả mong đợi của cốt truyện của một cuốn tiểu thuyết, phim, chương trình
**Doris Day** (tên khai sinh **Doris Mary Ann Kappelhoff**; 3 tháng 4 năm 1922 – 13 tháng 5 năm 2019) là một nữ diễn viên, ca sĩ, và nhà hoạt động cho quyền động vật
Theo lịch Gregory, năm **1899** (số La Mã: **MDCCCXCIX**) là năm bắt đầu từ ngày Chủ Nhật. ## Sự kiện ### Tháng 1 *8 tháng 1: Thành lập câu lạc bộ SK Rapid Wien *17
**Michael Stuhlbarg** (; sinh ngày 5 tháng 7 năm 1968) là một diễn viên người Mỹ. Ông được biết đến nhiều hơn nhờ vai giáo sư đại học gặp khó khăn Larry Gopnik trong bộ
phải|Thấu kính và giá của máy chụp hình khổ lớn **Nhiếp ảnh** là quá trình tạo ra hình ảnh bằng tác động của ánh sáng với phim hoặc thiết bị nhạy sáng. Nhiếp ảnh dùng
**Bảo tàng Grévin** (tiếng Pháp: _Musée Grévin_) là một bảo tàng sáp nằm ở Quận 9 thành phố Paris, nơi trưng bày các bức tượng sáp của những nhân vật nổi tiếng. Grévin là bảo
**Scarlett Ingrid Johansson** (; sinh ngày 22 tháng 11 năm 1984) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ. Cô là nữ diễn viên được trả thù lao cao nhất thế giới kể
**_Ngài_** **Christopher Edward Nolan** (; sinh ngày 30 tháng 7 năm 1970) là một nam nhà làm phim kiêm doanh nhân người Mỹ gốc Anh. Được đánh giá là nhà làm phim tiên phong trong
**Vivien Leigh, Nam tước phu nhân Olivier** (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1913 - mất ngày 8 tháng 7 năm 1967), là một diễn viên điện ảnh người Anh. Bà đã giành được 2
**_Basic Instinct_** là một bộ phim điện ảnh giật gân khiêu dâm neo-noir công chiếu năm 1992 do Paul Verhoeven làm đạo diễn và Joe Eszterhas chắp bút viết kịch bản. Phim theo chân thanh
**Danh sách 100 phim giật gân của Viện phim Mỹ** (tiếng Anh: _AFI's 100 Years... 100 Thrills_) là một trong các danh sách được Viện phim Mỹ (_American Film Institute_, viết tắt là _AFI_) lập
"**Bad Romance**" là một bài hát và đĩa đơn chính của ca sĩ người Mỹ Lady Gaga. Ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên trích từ đĩa mở rộng thứ ba
**Phim ly kỳ** hay **phim bí ẩn** là một thể loại phim xoay quanh việc giải quyết một vấn đề hoặc giải mã một tội phạm. Nó tập trung vào những nỗ lực của thám
Dưới đây là danh sách các nhà kĩ sư cơ khí, người được rèn luyện và hành nghề trong cơ khí, kỹ thuật nguyên tử,... Xem thêm danh sách các kĩ sư cho danh sách
phải **Điện ảnh Hoa Kỳ** ra đời ngay từ cuối thế kỷ 19 và từ đó đã nhanh chóng trở thành một trong những nền điện ảnh hàng đầu thế giới cả về số lượng
**Liên hoan phim Quốc tế Berlin** (), thường được gọi là **Berlinale**, là liên hoan phim được tổ chức hàng năm tại Berlin, Đức. Được thành lập vào năm 1951 và ban đầu được tổ
**Thomas Pierre Wiseau** ( hoặc ; tên khai sinh **Tomasz Wieczorkiewicz**; sinh ngày 3 tháng 10 năm 1955) là một diễn viên và nhà làm phim người Mỹ gốc Âu, được biết đến với vai
**Rhonda Fleming** (tên khai sinh là **Marilyn Louis**; 10 tháng 8 năm 1923 - 14 tháng 10 năm 2020) là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình kiêm ca sĩ người Mỹ. Bà
**Maureen O'Hara** (tên khai sinh là **Maureen FitzSimons**; ngày 17 tháng 8 năm 1920 - ngày 24 tháng 10 năm 2015) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Ireland. Bà nổi tiếng vói mái
**Joaquin Rafael Phoenix** (; nhũ danh **Botttom**; sinh 28 tháng 10 năm 1974) là một diễn viên, nhà sản xuất, và nhà hoạt động vì quyền động vật người Mỹ. Anh thường vào vai những
**Alexander Frey** là chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, nghệ sĩ organ, nghệ sĩ dương cầm, đàn harpsichord và nhà soạn nhạc người Mỹ. Frey đang được yêu cầu rất nhiều với tư cách là
**Marion Crane** (hay **Mary Crane** trong nguyên tác), còn có tên gọi khác là **Marie Samuels**, là một nhân vật hư cấu được tác giả người Mỹ Robert Bloch tạo ra trong cuốn tiểu thuyết
**Robert Albert Bloch** (; sinh ngày 5 tháng 4 năm 1917mất vào 23 tháng 9 năm 1994) là một nhà văn viễn tưởng người Mỹ, chủ yếu viết về chủ đề tội phạm, tâm lý
**Lâu Diệp** (, sinh năm 1965) là một nhà biên kịch kiêm đạo diễn người Trung Quốc, thường được xếp trong "Thế hệ đạo diễn thứ 6" của nền điện ảnh Trung Quốc. ## Sự
**Claude Jade** (tên sinh **Claude Marcelle Jorré**; 8 tháng 10 năm 1948 – 1 tháng 12 năm 2006) là nữ diễn viên Pháp. Con gái của hai vợ chồng giáo sư, bà học ở Trường
**_Hồ thiên nga_** ( ), là vở ballet số 20 của nhà soạn nhạc Pyotr Ilyich Tchaikovsky, sáng tác khoảng năm 1875–1876. Mặc dù ban đầu, vở ballet gặp thất bại, nhưng hiện nay nó
thumb|upright=1|right|_[[Cuốn theo chiều gió (phim)|Cuốn theo chiều gió_ giữ danh hiệu bộ phim có doanh thu cao nhất trong 25 năm và, khi tính đến lạm phát, đã thu về nhiều hơn bất kỳ bộ