✨Aburaage

Aburaage

thumb|200x200px|Abura-age thumb|200x200px|Atsu-age là một loại thực phẩm của Nhật Bản có nguồn gốc từ đậu tương. Món ăn này được chế biến bằng cách cắt đậu phụ thành những miếng mỏng và chiên ngập dầu chúng hai lần, lần đầu ở nhiệt độ 110–120 °C, và lần tiếp theo ở 180–200 °C. Aburaage thường được sử dụng để gói , và được thêm vào món xúp miso. Nó cũng được thêm vào trong mì udon, được gọi là kitsune-udon vì những truyền thuyết rằng loài cáo (kitsune) rất thích loại đậu phụ chiên ngập dầu. Aburaage cũng có thể được nhồi, ví dụ với nattō, trước khi chiên lại lần nữa. Có một phiên bản dày hơn được gọi là hoặc .

Người Nhật Bản là những người đầu tiên phát triển loại thực phẩm dạng bọc lấy từ vỏ đậu phụ chiên. Tuy nhiên, rất ít thông tin được tìm thấy về lịch sử ban đầu của chúng. Cuốn Tofu Hyakuchin (Đậu phụ bách trân) năm 1782 (Abe 1972) đưa ra một công thức của đậu phụ chiên ngập dầu, nhưng không rõ loại đậu phụ này có căng phồng lên như loại bọc bằng đậu phụ không. Bọc đậu phụ xuất hiện sớm nhất vào năm 1853, khi món inari-zushi (bọc đậu phụ được nhồi bằng cơm nấu với giấm) bắt đầu xuất hiện (Ichiyama 1968). Do thuận tiện với việc lưu trữ thực phẩm trong khoảng thời gian dài, lại nhẹ nhàng, cùng với sự phức tạp trong chế biến, loại bọc đậu phụ này thích hợp với việc sản xuất trong các nhà máy và phân phối rộng rãi theo quy mô lớn. Tới năm 1974, các nhà máy lớn đã sử dụng tới hai tấn đậu tương mỗi ngày để tạo ra 116.600 chiếc bọc đậu phụ. Tới năm 1980, các nhà máy hiện đại quy mô lớn có năng suất lên tới 300.000 tới 450.000 bọc mỗi ngày bằng phương thức chế biến chiên ngập dầu qua băng tải. Tại thời điểm hiện tại, khoảng một phần ba sản lượng đậu tương dùng cho chế biến đậu phụ ở Nhật là dành cho đậu phụ chiên ngập dầu, và ước chừng 85% trong số chúng được chế biến thành bọc đậu phụ.

Trong thần thoại Nhật Bản, aburaage là món ăn yêu thích của Kitsune và thần Inari.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|200x200px|Abura-age thumb|200x200px|Atsu-age là một loại thực phẩm của Nhật Bản có nguồn gốc từ đậu tương. Món ăn này được chế biến bằng cách cắt đậu phụ thành những miếng mỏng và chiên ngập dầu
là một loại mỳ sợi làm từ bột mì, thường dùng trong ẩm thực Nhật Bản. Món ăn này ở dạng đơn giản nhất thường được phục vụ nóng dưới dạng mì nước, như _kake
**Hình tượng con cáo trong văn hóa** xuất hiện trong nhiều nền văn minh nhân loại. Sự đa dạng của các loài dạng cáo đã làm cho hình tượng của chúng hiện diện trong nhiều
phải|Biểu tượng của thần đạo được thế giới biết đến nhỏ|phải|Một thần xã nhỏ **Thần đạo** (tiếng Nhật: 神道 _Shintō_) là tín ngưỡng tôn giáo truyền thống chủ yếu của người Nhật Bản. ## Tín
phải|Các loại sushi. Theo chiều kim đồng hồ: [[#Nigirizushi|nigirizushi, makizushi, temaki.]] phải|nhỏ|Makizushi và inarizushi trong một siêu thị Nhật. là một món ăn Nhật Bản gồm cơm trộn giấm (_shari_) kết hợp với các nguyên
thumb|(video) Nhiều món hầm oden khác nhau trong nước dùng. là một món ăn phục vụ trong nồi của Nhật Bản, gồm một số nguyên liệu như trứng luộc, daikon, konjac, và chả cá đã
right|thumb|Inari và những tinh linh cáo của họ giúp thợ rèn Munechika rèn nên thanh gươm _kogitsune-maru_ (_Tiểu Hồ_) vào cuối thế kỉ 10. Huyền thoại này là chủ đề của vở kịch [[noh _Sanjo
  là một món xúp của Nhật Bản với nguyên liệu là giò heo cùng các loại rau củ được nêm với xúp miso. Đây là món ăn biến thể phổ biến của món miso,
là một món ăn phổ biến bao gồm các món ăn chứa và không chứa thịt gia cầm, chúng được xiên lên và nướng. Hiện nay, nhiều nhà hàng đã gộp tất cả những món
nhỏ|250x250px| Hōtō (ほ う と) là một món ăn phổ biến địa phương có nguồn gốc từ [[Yamanashi, Nhật Bản được chế biến bằng cách hầm mì udon phẳng và rau trong xúp miso.]] Đây