✨Witold Pilecki

Witold Pilecki

Witold Pilecki (ngày 13 tháng 5 năm 190125 tháng 5 năm 1948; ; mật danh Roman Jezierski, Tomasz Serafiński, Druh, Witold) là một sĩ quan kỵ binh, nhân viên tình báo và lãnh đạo kháng chiến người Ba Lan trong thời kỳ Thế chiến II.

Khi còn trẻ, Pilecki tham gia vào lực lượng trinh sát bí mật của Ba Lan. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông tiếp tục gia nhập lực lượng dân quân Ba Lan và sau đó là Quân đội Ba Lan. Ông tham gia Chiến tranh Ba Lan - Liên Xô, một cuộc chiến kết thúc vào năm 1921. Năm 1939, ông tham gia vào cuộc chiến bảo vệ Ba Lan chống lại sự xâm lược của Đức và không lâu sau đó, tham gia vào phong trào kháng chiến của Ba Lan, đồng sáng lập nên phong trào kháng chiến bí mật của Quân đội Ba Lan. Năm 1940, Pilecki tình nguyện để cho bản thân bị bắt bởi quân Đức, lúc đó vẫn đang chiếm đóng Ba Lan, để xâm nhập vào trại tập trung Auschwitz. Tại Auschwitz, ông đã tổ chức một phong trào kháng chiến với sự tham gia của hàng trăm tù nhân. Ông cũng bí mật thu thập các báo cáo chi tiết về những hành động tàn bạo của quân Đức tại trại rồi lén chuyển chúng đến trụ sở Quân đội Ba Lan kháng chiến và chia sẻ với các Đồng minh phương Tây. Sau khi trốn thoát khỏi trại Auschwitz, Pilecki đã tham gia chiến đấu trong Cuộc khởi nghĩa Warsaw từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1944. Sau khi cuộc nổi dậy bị đàn áp, ông bị bắt giam trong trại tù binh chiến tranh của Đức. Sau khi phe cộng sản tiếp quản Ba Lan, ông vẫn trung thành với chính phủ Ba Lan lưu vong có trụ sở tại London. Năm 1945, ông trở lại Ba Lan để báo cáo với chính phủ lưu vong về tình hình ở Ba Lan. Trước khi trở về, dự đoán rằng bản thân có thể bị chính quyền cộng sản mới của Ba Lan sát hại, Pilecki đã viết Báo cáo của Witold để kể lại những trải nghiệm ở trại Auschwitz của mình. Năm 1947, ông bị mật vụ bắt vì tội làm việc cho "chủ nghĩa đế quốc nước ngoài", sau khi trải qua việc nhiều màn tra tấn và xét xử, ông bị xử tử vào năm 1948.

Câu chuyện của ông, do mang tới nhiều góc nhìn bất lợi cho các nhà chức trách cộng sản đương thời ở Ba Lan, nên hầu như đã bị ém nhẹm trong vài thập kỷ. Một trong những tường thuật đầu tiên về sứ mệnh của Pilecki tới Auschwitz đã được đưa ra bởi nhà sử học Ba Lan Józef Garliński, bản thân cũng là một cựu tù nhân của trại Auschwitz di cư đến Anh sau chiến tranh, trong cuốn Fighting Auschwitz (1975). Những năm sau đó, một số sách chuyên khảo đã bắt đầu đưa câu chuyện của Pilecki lên trang giấy. Đặc biệt, việc chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở Ba Lan đã tạo điều kiện cho các nhà sử học Ba Lan nghiên cứu nhiều hơn về cuộc đời của ông.

Tiểu sử

Thời trẻ

trái|nhỏ|Pilecki (ngồi ngoài cùng bên phải) khi còn là một trinh sát, [[Oryol, Nga, 1917]] Witold Pilecki sinh ngày 13 tháng 5 năm 1901 tại thị trấn Olonets, Karelia, thuộc Đế quốc Nga. Witold là một trong năm người con của thanh tra kiểm lâm Julian Pilecki và Ludwika Osiecimska.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, năm 1916, Pilecki được mẹ gửi đến một trường học ở thành phố Oryol của Nga, nằm ở phía Đông và do vậy an toàn hơn Wilno. Tại đây, ông theo học tại một trường trung học và thành lập một chi hội tại địa phương của ZHP.

Chiến tranh thế giới thứ II

Chiến dịch tháng 9 của Ba Lan

Với việc căng thẳng Ba Lan-Đức gia tăng vào giữa năm 1939, Pilecki đã được điều động làm chỉ huy một trung đội kỵ binh vào ngày 26 tháng 8 năm 1939. Ông được bổ nhiệm vào Sư đoàn bộ binh 19 thuộc Quân đội Phổ dưới quyền của Thiếu tướng Józef Kwaciszewski. Đơn vị của ông đã tham gia vào cuộc chiến khốc liệt chống lại quân Đức trong cuộc xâm lược Ba Lan. Vào đêm mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 9, Sư đoàn 19 gần như bị tiêu diệt hoàn toàn sau cuộc đụng độ với quân Đức trong trận Piotrków Trybunalski. Những người còn sót lại sau đó đã được hợp nhất vào Sư đoàn bộ binh 41 và rút về phía đông nam đến Lwów (nay là Lviv, Ukraine) và đầu cầu Romania. Tại Sư đoàn 41, Pilecki được bổ nhiệm làm chỉ huy thứ hai của đội kỵ binh, dưới quyền Thiếu tá Jan Włodarkiewicz. Vào ngày 17 tháng 9, Liên Xô tiến hành xâm lược miền đông Ba Lan, điều này khiến cho tình hình lực lượng quân đội Ba Lan vốn đã rất tuyệt vọng nay còn tồi tệ hơn. Ngày 22 tháng 9, Sư đoàn 41 gặp thất bại nặng nề và buộc phải đầu hàng. Vào mùa xuân năm 1940, Pilecki nhận thấy rằng quan điểm của Włodarkiewicz dần trở nên lệch lạc, có dấu hiệu của tư tưởng bài Do Thái, Vào tháng 8, Włodarkiewicz đã thông báo trong một cuộc họp TAP rằng sau cùng thì họ sẽ chấp nhận tham gia vào tổ chức ngầm chính thống của Rowecki và Pilecki sẽ được đề xuất thực hiện nhiệm vụ thâm nhập vào trại tập trung Auschwitz. Włodarkiewicz cho biết đây không phải là mệnh lệnh mà là lời mời tình nguyện, còn Pilecki tin rằng đó là hình phạt vì ông đã từ chối ủng hộ hệ tư tưởng của Włodarkiewicz. Tuy nhiên, ông vẫn đồng ý thực hiện nhiệm vụ. Điều này đã dẫn đến một số ngộ nhận từ nhiều nguồn sau này khi mô tả rằng chính Pilecki đã tình nguyện xâm nhập vào trại Auschwitz ngay từ đầu. Nhiệm vụ của nhóm là nâng cao tinh thần cho các tù nhân, cung cấp tin tức từ bên ngoài trại, phân phát thực phẩm và quần áo bổ sung cho các thành viên, đồng thời thiết lập mạng lưới tình báo và huấn luyện các biệt đội để tiếp quản trại trong trường hợp có một cuộc tấn công cứu trợ từ bên ngoài. ZOW được tổ chức thành các phòng giam bí mật, mỗi phòng có năm thành viên.

Cuộc nổi dậy ở thủ đô

Khi Cuộc nổi dậy tại Warsaw nổ ra vào ngày 1 tháng 8 năm 1944, Pilecki tình nguyện phục vụ cho Đại đội Warszawianka, thuộc Tiểu đoàn Chrobry II của Kedyw. Ban đầu, ông tham gia với tư cách một sĩ quan bình thường ở trung tâm thành phố phía bắc chứ không tiết lộ cấp bậc của mình với cấp trên.

Sau chiến tranh

nhỏ|Pilecki tại [[Nhà tù Mokotów, Warsaw, 1947]] nhỏ|Pilecki tại tòa, năm 1948 Vào tháng 7 năm 1945 Pilecki gia nhập bộ phận tình báo quân sự của Quân đoàn II Ba Lan dưới quyền của Trung tướng Władysław Anders tại Ancona, Ý. Vào tháng 10 năm 1945, mối quan hệ giữa chính phủ lưu vong và chế độ Boleslaw Bierut được Liên Xô hậu thuẫn trở nên xấu đi. Lúc này, Pilecki được Anders và giám đốc tình báo của ông, Trung tá Stanisław Kijak, ra lệnh trở về Ba Lan để thực hiện nhiệm vụ báo cáo về lực lượng quân đội trong nước và tình hình chính trị tại đây dưới sự chiếm đóng của Liên Xô. Đến tháng 12 năm 1945, ông đến Warsaw và bắt đầu tổ chức mạng lưới thu thập thông tin tình báo. Vụ án của ông được giám sát bởi Đại tá Roman Romkowski. Một số đồng sự của Pilecki cũng bị bắt và bị xét xử cùng thời gian, với ít nhất ba người bị hành quyết, một số người khác nhận án tử hình đã được chuyển thành án tù. Năm 2012, cuốn nhật ký về khoảng thời gian ở trại Auschwitz của Pilecki đã được Garliński dịch sang tiếng Anh và xuất bản với tựa đề The Auschwitz Volunteer: Beyond Bravery (Tình nguyện viên Auschwitz: Vượt lên trên lòng dũng cảm). Giáo sĩ trưởng của Ba Lan, Michael Schudrich, đã có lời tựa trong bản dịch tiếng Anh năm 2012 của bản báo cáo của Pilecki rằng: "Khi Chúa tạo ra con người, Chúa đã nghĩ rằng tất cả chúng ta phải giống như Chỉ huy Witold Pilecki, phước lành cho những ký ức về ông." Nhà sử học Norman Davies đã viết trong phần mở đầu cũng của bản dịch này: "Nếu có một anh hùng Đồng minh xứng đáng được ghi nhớ và tôn vinh, ít ai có thể xứng đáng được như ông ấy." và cuốn sách năm 2019 của Jack Fairweather, The Volunteer: The True Story of the Resistance Hero Who Infiltrated Auschwitz (Người tình nguyện: Câu chuyện có thật về Người anh hùng kháng chiến đã xâm nhập vào Auschwitz), đây cũng là cuốn sách đã giành chiến thắng tại Giải thưởng Sách Costa.

Từ những năm 1990, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và câu chuyện của Pilecki được biết đến rộng rãi hơn, ông đã trở thành chủ đề của nhiều bài diễn thuyết phổ biến. Năm 2012, Nghĩa trang Powązki đã được khai quật trong một nỗ lực nhằm tìm kiếm hài cốt của ông nhưng không thành công.

Năm 2016, Bảo tàng Ngôi nhà Gia đình Pilecki (Dom Rodziny Pileckich) được thành lập tại Ostrów Mazowiecka. Nó mở cửa chính thức vào năm 2019, và triển lãm thường trực dành cho công chúng được tổ chức từ tháng 11 năm 2022. Năm 2017 chứng kiến sự thành lập của Viện Pilecki, một tổ chức của chính phủ Ba Lan nhằm tưởng nhớ những người đã giúp đỡ các nạn nhân của tội ác chiến tranh, tội ác chống lại hòa bình và nhân loại ở Ba Lan trong những năm 1917–1990.

Bộ phim năm 2006 __ ("Cái chết của Đại úy kỵ binh Pilecki"), do Ryszard Bugajski đạo diễn, đã khắc họa hình ảnh Pilecki có đạo đức vẹn toàn khi phải đối mặt với những lời buộc tội vô căn cứ. Cấu trúc bộ phim gợi cho khán giả nhớ đến cuộc tử đạo của một vị thánh, nhưng thay vì niềm tin vào Chúa, ông có niềm tin vào Đất nước.

Một bộ phim năm 2015 có tựa đề Pilecki của Marcin Kwaśny cũng mang tới hình ảnh Pilecki như một vị thánh của phong trào độc lập. Sự thần thánh hóa này có được bằng cách kể lại các sự kiện lịch sử đã được xác minh, cùng với nhiều phân cảnh cảnh được kịch tính hóa. Bộ phim đã khắc họa câu chuyện Pilecki thực hiện những hành động khó tin và đồng thời vẫn luôn giữ niềm tin với đất nước của mình, ngay cả khi phải chịu những hình phạt tra tấn khủng khiếp.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Witold Pilecki** (ngày 13 tháng 5 năm 190125 tháng 5 năm 1948; ; mật _danh Roman Jezierski, Tomasz Serafiński, Druh, Witold_) là một sĩ quan kỵ binh, nhân viên tình báo và lãnh đạo kháng
**Józef Adam Zygmunt Cyrankiewicz** (; 23 tháng 4 năm 1911 - 20 tháng 1 năm 1989) là một nhà chính trị gia thuộc Đảng Xã hội Ba Lan và sau năm 1948 là chính trị
thế=Lữ đoàn II thuộc Quân đoàn Ba Lan ở Volhynia|nhỏ|Lữ đoàn II thuộc Quân đoàn Ba Lan ở Volhynia **Quân đoàn Ba Lan** () là tên của lực lượng quân đội Ba Lan được thành
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
Ngày **19 tháng 9** là ngày thứ 262 (263 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 103 ngày trong năm. ## Sự kiện *1356 – Chiến tranh Trăm Năm: Quân Anh đánh bại quân Pháp
**Lech Aleksander Kaczyński**, IPA: [] (18 tháng 6 năm 1949 – 10 tháng 4 năm 2010) là Tổng thống của Ba Lan và là một nhà chính trị của đảng bảo thủ Pháp luật và
Nạn diệt chủng **Holocaust** (từ tiếng Hy Lạp: **': _hólos_, "toàn bộ" và _kaustós_, "thiêu đốt"), còn được biết đến với tên gọi **Shoah_' (tiếng Hebrew: , _HaShoah'', "thảm họa lớn"), là một cuộc diệt
**Những người lính bị nguyền rủa** (), là cách gọi về các lực lượng vũ trang chống cộng sản ở Ba Lan sau năm 1945 và được tiến hành bởi những cựu binh của lực
**Quan hệ Ba Lan–Việt Nam** là mối quan hệ giữa Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lịch sử. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào