✨Wisława Szymborska

Wisława Szymborska

Wislawa Szymborska, Maria Wisława Anna Szymborska (2 tháng 7 năm 1923 – 1 tháng 2 năm 2012) là nhà thơ người Ba Lan đoạt Giải Nobel Văn học năm 1996.

Tiểu sử

Wisława Szymborska sinh tại Bnin (nay là Kórnik, gần Poznan); năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Bà học xong tiểu học năm 1935 và trung học năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Trong một thời gian ngắn Szymborska làm công nhân đường sắt. Giai đoạn 1945–1947, bà học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagielloński. Năm 1945 bà khởi đầu sự nghiệp sáng tác với bài thơ Szukam słowa (Tôi tìm lời); năm 1952 in tập thơ đầu tiên Dlatego żyjemy (Vì lẽ này chúng ta đang sống) và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan.

Phong cách thơ của Szymborska thời kì này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, tổ quốc. Năm 1957, Szymborska xuất bản tập thơ thứ ba Wolanie do yeti (Lời kêu gọi đối với người tuyết) được dư luận quan tâm (trong nguyên tác sử dụng từ "yeti" có nghĩa là "người tuyết", ám chỉ thủ lĩnh của "xứ tuyết" láng giềng). Thời kì này bà thường viết lối thơ tự do, đặc trưng cho các nhà thơ Tây Âu đương đại, nhưng thơ Szymborska không trừu tượng mà cụ thể và dễ hiểu.

Wisława Szymborska và các thành viên [[Hội Văn bút Ba Lan]] Trong những năm 1953–1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo Życie Literackie (Đời sống văn học), các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Trong khoảng 1952–1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ tiếng Pháp, tiếng Nga ra tiếng Ba Lan.

Szymborska được tặng nhiều giải thưởng văn học. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 bà đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật Ba Lan; năm 1991 giải Goethe của Đức và năm 1995 giải thưởng Herder của Áo. Bà được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Adam Mickiewicz tại Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996, Szymborska được trao giải Nobel cho "những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại". Thơ của Wislawa Szymborska được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

Tác phẩm

  • Dlatego zyjemy (Vĩ lẽ này chúng ta đang sống, 1952), thơ
  • Pytania zadawane sobie (Những câu hỏi cho mình, 1954), thơ
  • Wolanie do yeti (Lời kêu gọi đối với người tuyết, 1957), thơ
  • Sols (Muối, 1962), thơ
  • Sili (1965), thơ
  • Poezje wybrane (Tuyển thơ, 1967), thơ
  • Sto pociech (Một trăm trò hề, 1967), thơ
  • Poezje (Thơ, 1970), thơ
  • Wszelki wypadek (Trường hợp bất kì, 1972), thơ
  • Tarsjusz i inne wiersze (Tarsius và những bài thơ khác, 1976), thơ
  • Wielka liczba (Số lớn, 1976), thơ
  • Ludzie na moscie (Những người trên cầu, 1985), thơ
  • Wieczúr autorski (Buổi chiều của tác giả, 1992), thơ
  • Koniec i poczatek (Kết thúc và mở đầu, 1993), thơ

Hai bài thơ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Wislawa Szymborska**, Maria Wisława Anna Szymborska (2 tháng 7 năm 1923 – 1 tháng 2 năm 2012) là nhà thơ người Ba Lan đoạt Giải Nobel Văn học năm 1996. ## Tiểu sử Wisława Szymborska
Ngày 10 tháng 10 năm 2019 Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố quyết định trao tặng giải thưởng Nobel Văn học năm 2018 cho Olga Tokarczuk. Vậy là sau Henryk Sienkiewicz, Wladyslaw Reymont,
Ngày 10 tháng 10 năm 2019 Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố quyết định trao tặng giải thưởng Nobel Văn học năm 2018 cho Olga Tokarczuk. Vậy là sau Henryk Sienkiewicz, Wladyslaw Reymont,
Ngày 10 tháng 10 năm 2019 Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố quyết định trao tặng giải thưởng Nobel Văn học năm 2018 cho Olga Tokarczuk. Vậy là sau Henryk Sienkiewicz, Wladyslaw Reymont,
Ngày 10 tháng 10 năm 2019 Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố quyết định trao tặng giải thưởng Nobel Văn học năm 2018 cho Olga Tokarczuk. Vậy là sau Henryk Sienkiewicz, Wladyslaw Reymont,
**Nhà Szołayski ở Kraków** (tiếng Ba Lan: _Kamienica Szołayskich w Krakowie_) là một ngôi nhà chung cư lịch sử tọa lạc tại số 9 Quảng trường Szczepański, trong khu Phố cổ của Kraków, Ba Lan.
**Antoni Krauze** (sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 - mất ngày 14 tháng 2 năm 2018) là một đạo diễn điện ảnh và nhà biên kịch người Ba Lan. ## Tiểu sử Antoni Krauze
**Văn học Ba Lan** là truyền thống văn học của đất nước Ba Lan. Hầu hết nền văn học Ba Lan được viết bằng tiếng Ba Lan, dù các ngôn ngữ khác sử dụng ở
Huy chương giải Nobel văn chương **Giải Nobel Văn học** (tiếng Thụy Điển: _Nobelpriset i litteratur_) là một trong sáu giải thưởng của nhóm Giải Nobel, giải được trao hàng năm cho một tác giả
Ngày **1 tháng 2** là ngày thứ 32 trong lịch Gregory. Còn 333 ngày trong năm (334 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *772 – Giáo hoàng Ađrianô I tựu nhiệm. *1327 – Edward
Ngày **2 tháng 7** là ngày thứ 183 (184 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 182 ngày trong năm. Đây là ngày chính giữa của một năm thường, vì có đúng 182 ngày trước
430x430px|thumb|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Bài hát "[[Macarena (bài hát)|Macarena", được hát bởi Los del Río và trộn bài bởi The Bayside Boys, trở thành một cơn sốt khiêu vũ lớn và
Năm **2012** được chỉ định là: * _International Year of Cooperatives_ * _International Year of Sustainable Energy for All_ ## Sự kiện diễn ra ### Tháng 3 * 8 – 19 tháng 3: AFC Challenge
**Hotel Bristol, Warsaw** là một di tích lịch sử và là một khách sạn sang trọng mở cửa vào năm 1901 nằm trên phố Krakowskie Przedmieście ở thủ đô của Ba Lan, Warszawa. ## Lịch
thumb|Ewa Lipska (trái) tại Hội chợ sách quốc tế ở [[Warsaw, 2006]] **Ewa Lipska** (sinh ngày 8 tháng 10 năm 1945 tại Kraków), là một nhà thơ Ba Lan. Bà thuộc thế hệ "Làn sóng
**Agata Zubel** (sinh năm 1978 tại Wrocław, Ba Lan) là một nhà soạn nhạc và ca sĩ người Ba Lan. ## Cuộc đời Zubel tốt nghiệp Trường Trung học Âm nhạc Karol Szymanowski của Wrocław
Tính cách của phụ nữ Ba Lan được định hình bởi lịch sử, văn hóa và chính trị của họ. Ba Lan là quốc gia có một lịch sử lâu dài về hoạt động nữ