✨Walt Disney

Walt Disney

Walter Elias Disney (; Theo Lillian, cuộc hôn nhân nói chung là hạnh phúc, mặc dù theo người viết tiểu sử về Disney tên Neal Gabler thì Lillian không "chấp nhận các quyết định của Disney một cách khiêm nhường hoặc [không chịu nổi] tình thế [bấp bênh] của ông một cách rõ ràng, và bà [cũng] thú nhận rằng Disney luôn bảo với mọi người là 'ông rất sợ vợ'." Lillian không mấy quan tâm đến phim ảnh hay bối cảnh xã hội Hollywood đương thời, và theo lời của nhà sử học Steven Watts thì bà "bằng lòng với việc quán xuyến việc nhà và chu cấp hỗ trợ cho chồng." Họ có với nhau 2 cô con gái trong suốt cuộc hôn nhân, với con đầu lòng tên là Diane sinh vào tháng 12 năm 1933 và người con thứ là Sharon, nhận nuôi vào tháng 12 năm 1936 khi được 6 tuần tuổi. Trong gia đình, cả Disney và vợ ông đều không giấu sự thật là Sharon được nhận làm con nuôi. Dù vậy, họ sẽ trở nên khó chịu nếu những người ngoài gia đình nhắc đến chuyện này. Hai vợ chồng Disney luôn cẩn thận giữ cho con gái họ tránh xuất hiện trước công chúng càng nhiều càng tốt, đặc biệt là sau vụ bắt cóc Lindbergh. Disney thực hiện những biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng con gái mình không bị báo chí chụp ảnh.

thế=A cartoon rabbit is driving a tramcar; other cartoon rabbits are in, under, on and around the car.|nhỏ|Áp phích rạp cho bộ phim [[Trolley Troubles (1927)]]

Đến năm 1926, Winkler giao quyền phân phối loạt phim Alice cho nhà sản xuất phim Charles Mintz, và cũng đồng thời là chồng bà. Tuy vậy, mối quan hệ giữa Mintz và Disney đôi lúc có căng thẳng.

thumb|Gia đình Disney tại sân bay Schiphol (1951)

Năm 1949, Disney và gia đình chuyển đến sống ở một ngôi nhà mới thuộc quận Holmby Hills, Los Angeles. Với sự giúp đỡ của Ward và Betty Kimball, những người đã có đường sắt ở sân sau nhà cho riêng mình, Disney liền phát triển một bản thiết kế và ngay lập tức bắt tay vào việc tạo dựng một tuyến đường sắt tàu hơi nước thu nhỏ cho sân sau nhà ông. Đường sắt có tên là Carolwood Pacific Railroad, xuất phát từ vị trí nhà Disney trên đường Carolwood. Kỹ sư Roger E. Broggie của Disney Studios là người thiết kế đầu máy hơi nước hoạt động thu nhỏ, và Disney đặt tên cho đầu máy là Lilly Belle theo tên vợ ông. Sau ba năm, Disney cất đầu máy xe lửa vào cửa hàng cơ khí của xưởng phim vì xảy ra sự cố với khách tham quan.

1950–1966: Công viên giải trí, truyền hình và các sở thích khác

Đầu năm 1950, Disney sản xuất Cô bé Lọ Lem, bộ phim hoạt hình thời lượng dài đầu tiên của xưởng phim sau tám năm. Kể từ khi ra mắt, tác phẩm đã trở nên nổi tiếng trong mắt giới phê bình cũng như khán giả. Bộ phim có kinh phí là 2,2 triệu đô la và thu về gần 8 triệu đô la trong năm đầu tiên. Disney ít tham gia vào Cô bé Lọ Lem hơn so với những phim hoạt hình trước đây, vì ông bận bắt tay vào hai bộ phim người đóng toàn bộ đầu tay của mình là Đảo giấu vàng (1950) và The Story of Robin Hood and His Merrie Men (1952). Cả hai tác phẩm đều được quay ở Anh. Nối tiếp hai bộ phim là những sản phẩm phim người đóng thời lượng dài khác, với một trong số đó là chủ đề yêu nước. Ông cũng tiếp tục cho ra đời các bộ phim hoạt hình dài gồm Alice ở xứ sở thần tiên (1951) và Peter Pan (1953). Từ đầu đến giữa thập niên 1950, Disney bắt đầu ít chú trọng đến ban hoạt hình hơn và giao phần lớn hoạt động của bộ phận này cho nhóm Chín Ông già. Dù vậy, ông vẫn luôn có mặt trong các buổi họp kịch bản truyện. Trong giai đoạn này, ông chủ yếu tập trung vào những hoạt động kinh doanh khác.

thumb|left|Disney trình bày kế hoạch của [[Disneyland cho các quan chức Quận Cam vào tháng 12 năm 1954]]

Trong nhiều năm, Disney tính đến việc xây dựng một công viên giải trí. Khi ông tham quan Công viên Griffith ở Los Angeles cùng với con gái mình, ông cảm thấy muốn hòa mình vào một công viên sạch sẽ, thuần khiết, nơi mà cả trẻ em và các bậc phụ huynh có thể vui chơi. Trong lần đến thăm Công viên Tivoli ở Copenhagen, Đan Mạch, Disney thấy ấn tượng mạnh bởi sự sạch sẽ và cách bài trí của công viên. Vào tháng 3 năm 1952, ông nhận giấy phép quy hoạch để xây dựng một công viên giải trí ở Burbank, gần Disney Studios. Tuy nhiên, đất xây dựng ở đây có vẻ quá nhỏ, nên Disney mua miếng đất lớn hơn ở Anaheim cách 35 dặm (56 km) về phía nam của xưởng phim. Disney muốn tách dự án khỏi xưởng phim nhằm tránh thu hút sự chỉ trích từ các cổ đông. Để thực hiện điều này, Disney thành lập WED Enterprises (nay là Walt Disney Imagineering) và sử dụng tiền riêng của mình để tài trợ cho một nhóm các nhà thiết kế cùng với họa sĩ diễn hoạt nhằm thực hiện kế hoạch. Những người tham gia vào dự án đều được gọi là "Imagineer". Sau khi nhận vốn từ ngân hàng, ông mời thêm các cổ đông khác gồm American Broadcasting-Paramount Theatres, bộ phận của American Broadcasting Company (ABC) và Western Publishing. Vào giữa năm 1954, Disney phái những Imagineer đến mọi công viên giải trí ở Hoa Kỳ để phân tích xem chúng hoạt động như thế nào, có bất trắc gì không và các vấn đề ở từng địa điểm khác nhau. Dựa vào đó, ông sẽ tổng hợp những phát hiện của họ vào trong bản thiết kế. Công việc xây dựng bắt đầu vào tháng 7 năm 1954 và Disneyland mở cửa vào tháng 7 năm 1955. Lễ khánh thành phát sóng trên ABC đã thu hút 70 triệu người theo dõi. Công viên được thiết kế như một chuỗi các vùng đất theo chủ đề liên kết với nhau bởi Main Street, U.S.A, bản sao của con phố chính ở Marceline, quê hương Disney. Các khu vực theo chủ đề được kết nối là Adventureland, Frontierland, Fantasyland và Tomorrowland. Công viên cũng có đường sắt khổ hẹp tên là Disneyland Railroad đóng vai trò là mắt xích giữa những vùng đất. Bao quanh bên ngoài công viên là một bức tường cao để ngăn cách công viên với thế giới bên ngoài. Một bài xã luận trên tờ The New York Times cho rằng Disney đã "kết hợp một cách khéo léo một số điều thú vị của ngày hôm qua với sự tưởng tượng và những giấc mơ của ngày mai". Mặc dù công viên ban đầu có một số vấn đề nhỏ nhưng nó vẫn là một thành công. Sau một tháng hoạt động, Disney đón hơn 20.000 lượt khách ghé thăm mỗi ngày. Vào cuối năm đầu tiên, công viên đã thu hút 3,6 triệu lượt khách tham quan.

Tiền từ ABC phụ thuộc vào các chương trình truyền hình của Disney. Hãng phim đã tham gia vào một chương trình truyền hình đặc biệt vào Lễ Giáng sinh năm 1950 kể về quá trình thực hiện tác phẩm Alice ở xứ sở thần tiên. Roy tin rằng chương trình giúp tăng thêm hàng triệu đô la vào doanh thu phòng vé. Trong một lá thư gửi cho cổ đông vào tháng 3 năm 1951, ông viết rằng "truyền hình có thể là phương tiện hỗ trợ kiếm tiền hiệu quả nhất, đồng thời cũng là một nguồn thu. Có lẽ chúng ta sẽ dấn thân vào truyền hình theo tiền đề này." Vào năm 1954, ABC cho phát sóng chương trình Walt Disney's Disneyland sau khi đồng ý tài trợ cho Disneyland. Chương trình là một tuyển tập bao gồm phim hoạt họa, phim người đóng thời lượng dài và các nguồn phim khác từ thư viện của xưởng phim. Nó đã thành công về mặt lợi nhuận và hiệu suất khi tỉ lệ khán giả đạt trên 50%. Việc ABC hài lòng với kết quả thu được dẫn đến sự ra mắt của chương trình truyền hình hàng ngày đầu tiên của Disney là The Mickey Mouse Club, một chương trình tạp kỹ dành riêng cho trẻ em. Chương trình thường đi kèm với việc bán hàng thương phẩm thông qua các công ty khác nhau (ví dụ như Western Printing đã sản xuất sách tô màu và truyện tranh trong hơn 20 năm, cùng với đó là tạo ra một số mặt hàng liên quan đến chương trình). Một trong những phân đoạn của Disneyland có năm phần miniseries Davy Crockett mà theo Gabler nhận xét là "trở thành một hiện tượng chỉ sau một đêm". Bài hát chủ đề của chương trình là "The Ballad of Davy Crockett" đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới với mười triệu đĩa được bán. Kết quả là Disney quyết định thành lập công ty sản xuất và phân phối đĩa hát với tên gọi Disneyland Records cho riêng mình.

Cùng với việc xây dựng Disneyland, Disney còn thực hiện một số dự án khác bên ngoài xưởng phim. Ông làm chuyên gia tư vấn của Triển lãm Quốc gia Hoa Kỳ năm 1959 tại Moskva. Bên cạnh đó, Disney Studios cũng đóng góp cho Hội chợ Quốc tế Brussels 1958 bộ phim America the Beautiful. Đây là một tác phẩm với thời lượng 19 phút được chiếu ở rạp Circarama với góc quay 360 độ, một trong những điểm thu hút nhiều người xem nhất. Ở năm tiếp theo, ông đóng vai trò chủ tịch Ủy ban Cảnh trí cho Thế Vận hội Mùa đông 1960 ở Squaw Valley, California. Tại Thế Vận hội, ông là người thiết kế lễ khai mạc, bế mạc và trao huy chương.

thumb|upright|left|Disney vào năm 1954

Bất chấp những yêu cầu từ các dự án không thuộc hãng phim, Disney vẫn tiếp tục làm việc với nhiều dự án phim và truyền hình. Năm 1955, ông bắt tay vào sản xuất "Man in Space", một tập của loạt phim Disneyland được thực hiện với sự hợp tác của Wernher von Braun, nhà thiết kế tên lửa NASA. Disney cũng đảm nhận việc giám sát từng khía cạnh của các bộ phim dài đầy đủ như Tiểu thư và chàng lang thang (phim hoạt hình CinemaScope đầu tiên) công chiếu vào năm 1955, Người đẹp ngủ trong rừng (phim hoạt hình đầu tiên phát hành dưới định dạng Technirama 70 mm) vào năm 1959, Một trăm linh một chú chó đốm (phim hoạt hình dài đầu tiên sử dụng Xerox cel) ra mắt vào năm 1961, và Thanh gươm trong đá (1963).

Năm 1964, Disney sản xuất Mary Poppins dựa trên bộ sách cùng tên của P. L. Travers. Ông đã cố gắng mua bản quyền câu chuyện từ thập niên 1940. Nó trở thành bộ phim thành công nhất của Disney trong thập niên 1960, mặc dù Travers cực kỳ không thích tác phẩm chuyển thể này và cảm thấy hối hận vì đã bán bản quyền. Cùng năm đó, ông cũng tham gia vào kế hoạch mở rộng Học viện nghệ thuật California (thường gọi là CalArts), đồng thời nhờ một kiến trúc sư thiết kế bản vẽ cho một tòa nhà mới.

Disney chuẩn bị đầy đủ cho 4 màn trình diễn tại Hội chợ Quốc tế New York năm 1964; ông đã nhận vốn từ các nhà tài trợ hàng đầu cho dự án này. Ông biết rằng PepsiCo muốn lên kế hoạch bày tỏ lòng kính trọng với UNICEF nên quyết định triển khai It's a Small World, một chuyến du thuyền với những con búp bê cử động và có âm thanh miêu tả về trẻ em trên khắp thế giới. Những màn trình diễn còn lại gồm: Great Moments with Mr. Lincoln, một vở diễn sân khấu có sự góp mặt của một con rối Abraham Lincoln tự cử động (animatronic) đọc trích dẫn từ diễn văn tổng thống; Carousel of Progress thì khuyến khích về tầm quan trọng của năng lượng điện; và Ford's Magic Skyway diễn tả quá trình phát triển của nhân loại. Cả 4 cuộc triển lãm đều đã được cài đặt lại tại Disneyland, chủ yếu là qua khái niệm và kỹ thuật. Dù vậy, It's a Small World vẫn là cuộc dạo chơi gần giống với phiên bản gốc nhất.

Từ đầu đến giữa thập niên 1960, Disney lên kế hoạch cho một khu nghỉ dưỡng trượt tuyết ở Mineral King, khu vực thung lũng băng ở Sierra Nevada thuộc California. Ông thuê một số chuyên gia như Willy Schaeffler, huấn luyện viên trượt tuyết Olympic kiêm nhà thiết kế khu trượt tuyết nổi tiếng. Với thu nhập từ Disneyland chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong thu nhập của hãng phim, Disney tiếp tục tìm kiếm địa điểm để xây dựng các điểm tham quan khác. Vào cuối năm 1965, ông tuyên bố kế hoạch phát triển một công viên chủ đề tên là "Disney World" (nay là Walt Disney World), dự tính sẽ xây dựng ở nơi cách vài dặm về phía tây nam của Orlando, Florida. Disney World sẽ bao gồm "Magic Kingdom", một phiên bản lớn hơn và công phu hơn của Disneyland‍ với sân gôn và khách sạn bổ sung. Trung tâm của Disney World sẽ là "Xã hội tương lai kiểu mẫu" (EPCOT), mà Disney mô tả là:

Trong suốt năm 1966, Disney thúc đẩy các hoạt động kinh doanh để kiếm tiền tài trợ cho EPCOT. Ông tích cực tham gia vào những bộ phim của hãng và đóng góp nhiều cho việc xây dựng cốt truyện trong The Jungle Book, The Happiest Millionaire (cả hai bộ phim đều chiếu vào năm 1967) và phim hoạt hình ngắn Winnie the Pooh and the Blustery Day (1968).

Bệnh tật, qua đời và những hệ quả sau đó

thumb|upright|left|alt=A gravestone inscribed 'Walter Elias Disney', 'Lillian Bounds Disney', 'Robert B. Brown', Sharon Disney Brown Lund ashes scattered in paradise'|Ngôi mộ của Disney tại Forest Lawn, Glendale

Disney nghiện thuốc lá nặng kể từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông không hút thuốc lá có đầu lọc mà sử dụng tẩu thuốc từ khi còn trẻ. Tháng 11 năm 1966, ông được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư phổi và phải điều trị bằng phương pháp xạ trị cobalt. Vào ngày 30 tháng 11 năm 1966, ông cảm thấy không khỏe và được đưa đến Bệnh viện St. Joseph ở Burbank, California. Đến ngày 15 tháng 12 cùng năm, 10 ngày sau sinh nhật lần thứ 65 của bản thân, ông qua đời vì trụy tuần hoàn do căn bệnh ung thư. Hài cốt của ông được hỏa táng hai ngày sau đó và tro cốt của ông được bảo quản tại Công viên Tưởng niệm Forest Lawn ở Glendale, California, Hoa Kỳ.

Việc phát hành The Jungle BookThe Happhest Millionaire vào năm 1967 đã nâng tổng số phim dài mà Disney tham gia lên con số 81. Khi Winnie the Pooh and the Blustery Day phát hành vào năm 1968, nó đã mang về cho Disney một Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất. Ông được trao giải sau khi mất. Kể từ khi Disney qua đời, hãng phim của ông vẫn tiếp tục sản xuất rất nhiều phim người đóng nhưng bỏ bê việc làm phim hoạt hình cho đến cuối thập niên 1980. Giai đoạn này trở về sau được tờ The New York Times mô tả là "Thời kỳ Phục hưng của Disney" bắt đầu với bộ phim Nàng tiên cá (1989). Những công ty của Disney vẫn tiếp tục sản xuất phim ảnh, truyền hình, sân khấu giải trí và đạt được nhiều thành công.

thumb|upright|[[Roy O. Disney hoàn thành việc xây dựng Walt Disney World]]

Kế hoạch của Disney về thành phố tương lai EPCOT không trở thành hiện thực. Sau khi ông từ trần, anh trai Roy phải tạm hoãn nghỉ hưu để nắm toàn bộ quyền kiểm soát các công ty. Roy thay đổi trọng tâm của dự án từ một thị trấn thành một điểm thu hút khách tham quan. Tại lễ khánh thành năm 1971, Roy đã dâng tặng Walt Disney World cho em trai mình. Walt Disney World tiếp tục mở rộng với việc khai trương Epcot Center vào năm 1982. Tầm nhìn của Disney về một thành phố thiết thực dường như được thay thế bằng một công viên giống với triển lãm thế giới lâu dài hơn. Năm 2009, Bảo tàng Gia đình Walt Disney do Diane và con trai bà là Walter E. D. Miller thiết kế đã khai trương tại Presidio của San Francisco. Bảo tàng là nơi trưng bày hàng nghìn hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp của Disney, trong đó có rất nhiều giải thưởng mà ông nhận được. Các công viên giải trí của Disney trên khắp thế giới đã đón khoảng 134 triệu lượt khách vào năm 2014.

Disney được khắc họa rất nhiều lần trong các tác phẩm hư cấu. H. G. Wells từng đề cập đến Disney trong cuốn tiểu thuyết năm 1938 The Holy Terror. Trong tác phẩm, Kẻ Độc tài Thế giới Rud sợ rằng Vịt Donald có ý định chống lại y. Len Cariou đã đóng vai Disney trong bộ phim truyền hình năm A Dream Is a Wish Your Heart Makes: The Annette Funicello Story (1995). Tom Hanks cũng thể hiện vai diễn Disney trong bộ phim điện ảnh Cuộc giải cứu thần kỳ (2013). Năm 2001, soạn giả người Đức Peter Stephan Jungk đã xuất bản cuốn Der König von Amerika (tạm dịch: Vua nước Mỹ), một tác phẩm hư cấu tái hiện hình ảnh Disney của những năm về sau là một kẻ phân biệt chủng tộc khao khát quyền lực.

Tính cách và danh tiếng

thumb|upright|alt=A portrait of Disney with cartoon representations of different nationalities on a 6 cent US stamp|Tem bưu chính Hoa Kỳ năm 1968.

Hình ảnh của Disney trước công chúng rất khác so với cuộc sống đời thường. Nhà soạn kịch Robert E. Sherwood mô tả ông là người "gần như nhút nhát... thiếu tự tin" và tự ti. Theo người viết tiểu sử Richard Schickel thì Disney che giấu sự ngượng ngùng và cảm giác bất an của mình trước công chúng. Kimball lại lập luận rằng Disney đã "đóng vai một nhà tài phiệt bẽn lẽn, bối rối trước công chúng" và ông cố tình làm như vậy. Disney thừa nhận vẻ bề ngoài của mình và kể với một người bạn rằng "Tôi không phải là Walt Disney. Tôi làm rất nhiều điều mà Walt Disney sẽ không làm. Walt Disney không hút thuốc. Tôi hút. Walt Disney không uống rượu. Tôi uống." Nhà phê bình Otis Ferguson của tờ The New Republic nhận xét Disney lúc ở một mình là "bình dị và đời thường, không hề khó gần, không hề khó hiểu, không bị đè nén mà cũng chẳng phải nhà tài trợ hay gì. Chỉ [đơn giản] là Disney mà thôi." Nhiều người trong số những người từng làm việc với Disney nhận xét rằng ông rất ít khi khích lệ nhân viên vì ông kỳ vọng ở họ rất nhiều. Norman hồi tưởng lại khoảnh khắc mà Disney nói rằng "Hiệu quả đấy", đó là dấu hiệu Disney dành lời khen ngợi cho nhân viên. Thay vì thể hiện trực tiếp, Disney thường thưởng tiền cho nhân viên làm việc năng suất hoặc giới thiệu một số cá nhân có thành tích tốt cho những người khác, với hi vọng rằng lời khen ngợi của ông sẽ truyền tải đến mọi người.

Quan điểm về Disney và các bộ phim của ông có sự thay đổi theo thời gian. Mark Langer viết trong cuốn American Dictionary of National Biography rằng "Những đánh giá trước đây về Disney luôn ca ngợi ông là một người yêu nước, một nghệ sĩ nhân dân và là người truyền bá văn hóa. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, Disney lại bị xem như hình mẫu của chủ nghĩa đế quốc và sự thiếu khoan dung kiểu Mỹ, đồng thời là kẻ hủy hoại văn hóa." Steven Watts thì viết rằng một số người đã lên án Disney "là kẻ thao túng vô liêm sỉ bằng những thủ đoạn văn hóa và thương mại". Trong khi PBS thuật lại rằng các nhà phê bình đã khiển trách tác phẩm của Disney vì "vẻ bề ngoài giàu tình cảm ngọt xớt và lạc quan một cách cố chấp, viết lại lịch sử Hoa Kỳ theo kiểu tô hồng". Mặc dù phim của Disney nổi tiếng, được đánh giá cao và thành công về mặt thương mại theo thời gian nhưng vẫn nhận những lời chỉ trích từ giới phê bình. Caroline Lejeune nhận xét trên tờ The Observer rằng Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (1937) "có nhiều lỗi hơn bất kỳ phim hoạt hình Disney nào trước đó. Nó có thể bị các chuyên gia không ngừng chỉ trích gay gắt. Đôi lúc muốn nói thẳng ra là phim vẽ rất tệ." Robin Allen viết cho tờ The Times rằng Fantasia (1940) "đáng bị lên án vì tính thô tục và càng lúc càng trở nên lố bịch đến cùng cực". Lejeune thì cảm thấy bộ phim Alice ở xứ sở thần tiên (1951) "có thể khiến những người yêu quý Lewis Carroll trở nên phát điên". Peter Pan (1953) cũng bị chỉ trích trên tờ The Times là "một tác phẩm kinh điển dành cho trẻ em bị thô tục hóa" với "Tinker Bell... bị biến tấu thành một cô em người Mỹ xinh xắn". Nhà phê bình nhận định rằng Disney "đã giết chết tác phẩm tốt của Barrie và thay thế nó bằng một bộ phim Disney hạng hai".

Disney bị tố là bài Do Thái mặc dù không có nhân viên nào của ông từng buộc tội ông là buông lời gièm pha hoặc chế nhạo Do Thái, kể cả nhà làm phim hoạt hình cực kỳ ghét ông là Art Babbitt. Bảo tàng Gia đình Walt Disney thừa nhận rằng định kiến về sắc tộc khá phổ biến trong những bộ phim thập niên 1930, bao gồm cả một vài phim hoạt hình. Disney thường xuyên quyên góp cho các tổ chức từ thiện của người Do Thái, và được chi nhánh của tổ chức B'nai B'rith ở Beverly Hills vinh danh là "Người đàn ông của năm 1955". Hãng phim của ông cũng tuyển dụng một số người Do Thái với một trong số họ nắm giữ những vị trí có tầm ảnh hưởng. Nhà văn đầu tiên có quyền truy cập không hạn chế vào cơ quan lưu trữ của Disney là Gabler kết luận rằng chứng cứ hiện có không ủng hộ cho các cáo buộc bài Do Thái và Disney "không [bài Do Thái] theo cách hiểu thông thường của chúng ta về một người bài Do Thái". Gabler tổng kết rằng "mặc dù bản thân Walt, theo đánh giá của tôi không phải là người bài Do Thái. Tuy nhiên, ông sẵn sàng làm bạn với những người bài Do Thái [tức thành viên của Liên minh Điện ảnh Bảo tồn Lý tưởng Mỹ], và [kết quả là] ông bị gán vào cái danh đó. Ông không bao giờ có thể thực sự loại bỏ nó trong suốt cuộc đời mình." Disney tự tách mình ra khỏi Liên minh Điện ảnh vào thập niên 1950.

Disney cũng bị cáo buộc vào các hình thức phân biệt chủng tộc khác, vì một vài sản phẩm của ông phát hành từ thập niên 1930 đến thập niên 1950 chứa nội dung phân biệt chủng tộc. Các nhà phê bình đương đại, Hiệp hội Quốc gia vì sự tiến bộ của người da màu và một số người khác đã chỉ trích phim dài Song of the South vì có định kiến với người da đen. Tuy nhiên, Disney sau đó đã vận động thành công cho một ngôi sao của họ giành Giải Oscar danh dự, người đó là James Baskett, diễn viên da đen đầu tiên nhận được vinh dự như vậy. Gabler tranh luận rằng "Walt Disney không phân biệt chủng tộc. Ông ấy không bao giờ công khai hay ngấm ngầm đưa ra những nhận xét miệt thị về người da đen hoặc khẳng định người da trắng thượng đẳng. Tuy nhiên, giống như hầu hết những người Mỹ da trắng cùng thế hệ, ông ấy không nhạy cảm với vấn đề chủng tộc." Floyd Norman, họa sĩ diễn hoạt da đen đầu tiên của hãng phim, người làm việc thân cận với Disney trong thập niên 1950 và 1960 cho biết "Tôi chưa bao giờ thấy Disney có dấu hiệu nào về hành vi phân biệt chủng tộc mà mọi người thường cáo buộc sau khi ông mất. Cách mà ông ấy đối xử với người, và ý tôi là với tất cả mọi người, chỉ có thể được gọi là gương mẫu."

Watts lập luận rằng nhiều bộ phim hậu Thế chiến thứ hai của Disney "là một dạng Kế hoạch Marshall trên lĩnh vực văn hóa. Chúng nuôi dưỡng một hình thái chủ nghĩa đế quốc văn hóa thân thiện, lan tỏa ra khắp địa cầu một cách kỳ diệu bằng những giá trị, kỳ vọng và hàng hóa tiêu dùng của tầng lớp trung lưu khá giả tại Hoa Kỳ." Nhà sử học điện ảnh Jay P. Telotte thừa nhận rằng nhiều người coi hãng phim Disney là "công cụ thao túng và đàn áp". Dù vậy, ông nhận xét rằng hãng đã "nỗ lực trong suốt chiều dài lịch sử để tên tuổi của họ gắn liền với ý niệm vui nhộn, gia đình, và kỳ ảo". Trong nghiên cứu Cultural Imperialism, John Tomlinson đã xem xét tác phẩm Para leer al Pato Donald (tạm dịch: Làm sao để hiểu Vịt Donald) của Ariel Dorfman và Armand Mattelart. John tìm thấy đoạn xác định rằng "có mùi của... đế quốc 'ẩn' đằng sau vẻ ngoài trong sáng, lành mạnh của thế giới Walt Disney". Hai tác giả cho rằng thế giới này là một công cụ quyền lực vì "nó tự thể hiện như một sản phẩm giải trí vô hại dành cho trẻ em." Tomlinson coi lập luận của họ là thiếu sót vì "họ chỉ đơn giản cho rằng việc đọc nhiều truyện tranh Mỹ, xem quảng cáo, tranh ảnh về lối sống [Yankee] giàu có... là có thể bị ảnh hưởng trực tiếp theo".

Một số bình luận viên cho rằng Disney là một biểu tượng văn hóa. Bàn về sự qua đời của Disney, giáo sư báo chí Ralph S. Izard bình luận rằng phim của Disney "được xem là có giá trị trong xã hội Cơ đốc giáo Hoa Kỳ", bao gồm "tính đề cao cá nhân, sự đoan chính, ... tình yêu thương đối với đồng loại, sự công bằng và khoan dung". Cáo phó của Disney trên tờ The Times gọi phim của ông là "bổ ích, ấm áp, giải trí... có tính nghệ thuật độc nhất vô nhị và vẻ đẹp chạm đến cảm xúc [người xem]". Nhà báo Bosley Crowther lý luận rằng "thành tựu [của Disney] với tư cách là người sáng tạo ra sản phẩm giải trí cho công chúng gần như không có giới hạn và với tư cách là một nhà kinh doanh tài ba với các sản phẩm của mình có thể sánh vai với những nhà tư bản công nghiệp thành công nhất trong lịch sử." Phóng viên Alistair Cooke gọi Disney là "anh hùng dân tộc và là Pied Piper của Hollywood". Gabler thì xem Disney là người "định hình lại văn hóa và ý thức hệ của người Mỹ".

Vinh danh

thumb|Disney nhận [[Huân chương Tự do Tổng thống vào năm 1964 từ Tổng thống Lyndon B. Johnson.]]

Disney nhận được 59 đề cử Giải Oscar và thắng 22 giải trong số đó. Cả hai con số này đều là kỷ lục cho một cá nhân. Ông được đề cử cho 3 Giải Quả cầu vàng nhưng không giành chiến thắng, dù vậy ông vẫn nhận hai giải Thành tựu đặc biệt cho Bambi (1942) và The Living Desert (1953), cùng với Giải Cecil B. DeMille. Ông cũng nhận được bốn đề cử Giải Emmy, và giành chiến thắng một lần ở hạng mục Nhà sản xuất xuất sắc nhất cho loạt phim truyền hình Disneyland. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa một số phim của ông vào Viện lưu trữ phim quốc gia vì chúng có "ý nghĩa về mặt lịch sử, văn hóa và mỹ học". Những bộ phim được đưa vào bao gồm: Tàu hơi nước Willie, Ba chú heo con, Nàng Bạch tuyết và bảy chú lùn, Fantasia, Pinocchio, Bambi, DumboMary Poppins. Năm 1998, Viện phim Mỹ công bố danh sách 100 bộ phim hay nhất của Mỹ với sự đánh giá của các chuyên gia trong ngành. Danh sách đó gồm Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (ở vị trí 49), và Fantasia (ở vị trí 58).

Vào tháng 2 năm 1960, Disney được vinh danh trên Đại lộ Danh vọng Hollywood với hai ngôi sao, một cho phim điện ảnh và một cho chương trình truyền hình. Chuộc Mickey nhận được một ngôi sao riêng cho phim điện ảnh vào năm 1978. Disney cũng được đưa vào Đại sảnh Danh vọng Truyền hình vào năm 1986, Đại sảnh Danh vọng California vào tháng 12 năm 2006, và là chủ nhân đầu tiên của một ngôi sao trên đại lộ sao Anaheim vào năm 2014.

Bảo tàng Gia đình Walt Disney ghi lại rằng Disney "cùng với các nhân viên của mình nhận được hơn 950 danh hiệu và tước hiệu từ khắp nơi trên thế giới". Nước Pháp đã phong ông làm Chevalier (hiệp sĩ) của Légion d'honneur (Quân đoàn danh dự) vào năm 1935. Vào năm 1952, Disney được nước Pháp trao tặng Officer d'Academie, huân chương nghệ thuật cao quý nhất của đất nước. Những giải thưởng quốc gia khác bao gồm Huân chương Vương miện Thái Lan (1960), Huân chương Công trạng Đức (1956), Huân chương Thập tự phương Nam Brazil (1941) và Huân chương Đại bàng Aztec Mexico (1943). Tại Hoa Kỳ, ông được phong tặng Huân chương Tự do Tổng thống vào ngày 14 tháng 9 năm 1964 và được truy tặng Huân chương Vàng Quốc hội vào ngày 24 tháng 5 năm 1968. Bên cạnh đấy, ông cũng nhận Giải thưởng Bầu sô của Thế giới từ Hiệp hội các chủ rạp phim quốc gia. Trong năm 1955, Hội Audubon Quốc gia truy tặng cho Disney danh hiệu cao quy nhất là Huân chương Abudon, vì ông đã góp phần nâng cao "nhận thức và hiểu biết về môi trường tự nhiên" thông qua bộ phim True-Life Adventures. Năm 1980, nhà thiên văn học Lyudmila Karachkina phát hiện ra một hành tinh vi hình và đặt tên cho nó là 4017 Disneya. Disney cũng được Đại học Harvard, Đại học Yale, Đại học Nam California và Đại học California, Los Angeles trao bằng danh dự.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Walt Disney Animation Studios** (trước đây được biết đến với tên gọi **Walt Disney Feature Animation**, **Walt Disney Productions** và **Disney Brothers Cartoon Studio**), là một xưởng sản xuất phim hoạt hình của Hoa Kỳ
**Công ty Walt Disney** () (), hay thường được biết đến với tên **Disney** ( ), là tập đoàn giải trí và truyền thông đa phương tiện lớn nhất thế giới. Được thành lập ngày
**Walter Elias Disney** (; Theo Lillian, cuộc hôn nhân nói chung là hạnh phúc, mặc dù theo người viết tiểu sử về Disney tên Neal Gabler thì Lillian không "chấp nhận các quyết định của
right Đây là **danh sách phim sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios**, một hãng phim hoạt hình của Hoa Kỳ có trụ sở tại Burbank, California, và trước đây được biết đến với các
**Nhà biểu diễn nhạc Walt Disney** (tiếng Anh: _Walt Disnney Concert Hall_) là một sảnh hòa nhạc ở số 111 Nam Grand Avenue Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Công trình này là sảnh thứ tư
**_Walt Disney Pictures_**, còn được gọi là **Disney Live Action**, và _Cướp biển vùng Caribe_ là loạt phim thành công nhất của hãng, với năm phần phim thu về tổng doanh thu phòng vé trên
frameless|right Đây là **danh sách các phim chiếu rạp** phát hành dưới thương hiệu phim Walt Disney Pictures (lấy tên như hiện nay từ năm 1983, phim đầu tiên phát hành dưới tên này là
**Walt Disney Studios Motion Pictures** là một công ty phát hành phim của Mỹ trực thuộc The Walt Disney Company. Tuy nhiên, đã có sự bất đồng về giá trị doanh thu với series phim
**Walt Disney Records** là một hãng thu âm thuộc quyền sở hữu của Disney. ## Marketing ### Quảng cáo Từ năm 2007 về trước, Miley Cyrus, Selena Gomez, Demi Lovato, The Jonas Brothers và nhiều
thumb|right|[[Walt Disney bên cạnh bảy chú lùn, trong lời giới thiệu bộ phim _Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn_.]] **Walt Disney** (5 tháng 12 năm 1901 – 15 tháng 12 năm 1966) là một
**Danh sách các phim hoạt hình chiếu rạp của Disney** này bao gồm các bộ phim hoạt hình do The Walt Disney Studios, bộ phận sản xuất phim của Công ty Walt Disney, sản xuất
**Disney+** (được phát âm là "**_Disney Plus_**") là một dịch vụ video theo yêu cầu của Mỹ được sở hữu và điều hành bởi bộ phận Walt Disney Direct-to-Consumer & International của Công ty Walt
Cuốn truyện giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp cống hiến cho ngành công nghệ sản xuất phim hoạt hình của nhà sản xuất, đạo diễn phim hoạt hình Walt Disney. Dù trải qua
Cuốn truyện giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp cống hiến cho ngành công nghệ sản xuất phim hoạt hình của nhà sản xuất, đạo diễn phim hoạt hình Walt Disney. Dù trải qua
**"Disney Vault"** (Két an toàn của Disney) là một thuật ngữ được Walt Disney Studios Home Entertainment sử dụng để miêu tả chính sách ngừng phát hành các sản phẩm băng giải trí tại gia
Who Was Walt Disney A Who Was Board Book The latest addition to the Who HQ board book series a biography of Walt Disney, created specifically for the preschool audience The 1 New York Times
**_Aladdin_** là bộ phim hoạt hình của hãng hoạt hình Walt Disney sản xuất năm 1992, dựa trên truyện cổ tích _Aladdin và cây đèn thần_. Phim kể về một chàng trai trẻ tên Aladdin
Walt Disney always loved to entertain people. Often it got him into trouble. Once he painted pictures with tar on the side of his familys white house. His family was poor, and the happiest time
Robert Iger trở thành Giám đốc điều hành Công ty Walt Disney vào năm 2005, trong một thời kỳ khó khăn. Cạnh tranh khốc liệt hơn bao giờ hết và công nghệ thay đổi nhanh
Rất nhiều phim điện ảnh đã được sản xuất cho kênh truyền hình cáp Disney Channel, kể từ khi thành lập vào năm 1983. Những năm đầu, tên các phim này gọi là **Phim chiếu
"**Beauty and the Beast**" là một bài hát do ca sĩ người Canada Celine Dion và ca sĩ người Mỹ Peabo Bryson thể hiện. Bài hát được viết bởi nhà viết lời Howard Ashman và
**Disney XD** là một kênh truyền hình cáp kỹ thuật số và vệ tinh thuộc sở hữu Disney Channels Worldwide có đơn vị là Disney–ABC Television Group, trực thuộc Disney Media Networks do The Walt
**_Disney Princess_** là một thương hiệu truyền thông sở hữu bởi Công ty Walt Disney, do chủ tịch của Disney Consumer Products, Andy Mooney sáng tạo ra vào cuối những năm 1990. Thương hiệu này
**Rapunzel** là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình thứ 50 của Walt Disney Pictures, _Người đẹp tóc mây_ (2010). Được lồng tiếng bởi nữ diễn viên kiêm ca sĩ
**Thời kỳ Phục hưng của Disney** chỉ một kỷ nguyên bắt đầu vào khoảng cuối thập niên 1980 và kết thúc vào khoảng năm 2000, thời gian hãng phim Walt Disney Animation Studios quay trở
**Disney Jr.** (trước đây là Disney Junior) là mạng truyền hình trả tiền của Mỹ thuộc sở hữu của đơn vị Disney Entertainment thuộc Công ty Walt Disney thông qua Disney Branded Television. Nhắm chủ
**Disney Channel** là một kênh truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh kênh cơ bản mà chương trình phát sóng trong khu vực Đông Nam Á như là tài sản chủ lực của chủ
**Disney Digital 3-D** là một thương hiệu do Công ty Walt Disney sử dụng để miêu tả các phim 3D được sản xuất và phát hành bởi Walt Disney Studios Motion Pictures và được trình
**Pluto** (thường được biết đến như **Chó Pluto**) là một nhân vật trong phim hoạt hình do Công ty Walt Disney tạo ra. Pluto là một chú chó có màu vàng cam, kích thước trung
**Disney Channel** là một mạng lưới truyền hình vệ tinh và truyền hình cáp của Mỹ, sở hữu do Disney-ABC Television Group (thuộc công ty Walt Disney) có trụ sở tại Burbank, California. Kênh truyền
là một kênh truyền hình trả phí dành cho thiếu nhi, đồng thời phát sóng các chương trình giải trí tại Nhật Bản, thuộc sở hữu và điều hành bởi The Walt Disney Company Japan.
**Disney Research** là mạng lưới phòng nghiên cứu hỗ trợ cho Công ty Walt Disney. Mục đích của chuỗi phòng thí nghiệm này là phát triển các sáng chế công nghệ và khoa học nhằm
**_Disney Channel Playlist_** là album tuyển tập các bài hát được sử dụng trong các Disney Channel Original Series cũng như Disney Channel Original Movies, đã được phát hành ngày 9 tháng 6 năm 2009.
là một trò chơi trên di động, do Aniplex và Walt Disney Japan Nhật Bản sáng tạo. Người sáng tạo ra _Black Butler_ là Toboso Yana đã thiết kế nhân vật, kịch bản và khái
**Merida** là nhân vật chính trong bộ phim _Công chúa tóc xù_, do Pixar Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành năm 2012. ## Ngoại hình Merida có mái tóc xù rơm
**_Cuộc giải cứu thần kỳ_** () là phim hài-chính kịch tiểu sử được các hãng phim ba nước Hoa Kỳ-Úc-Anh hợp tác sản xuất năm 2013 do John Lee Hancock đạo diễn và Kelly Marcel
**_Nữ hoàng băng giá_** (còn gọi là _Băng giá_, ) là một bộ phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios
**_Người đẹp và quái vật_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Beauty and the Beast_**; còn có tựa Việt khác là **_Người đẹp và quái thú_**) là phim điện ảnh hoạt hình mang yếu tố nhạc kịch
**_Chuyện thần tiên ở New York_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Enchanted_**) là một bộ phim nhạc kịch người thật xen kẽ hoạt họa có yếu tố hư cấu hài hước lãng mạn của Hoa Kỳ
**_Lạc vào xứ Oz vĩ đại và quyền năng_** (tựa tiếng Anh: **_Oz the Great and Powerful_**) là một bộ phim phiêu lưu hài hước của Hoa Kỳ sản xuất năm 2013, đạo diễn bởi
**Hulu** (, ) là một dịch vụ thuê bao phát trực tuyến video của Mỹ, thuộc sở hữu của Disney Streaming, một công ty con của bộ phận Disney Entertainment thuộc Công ty Walt Disney.
**_101 chú chó đốm_** (tiếng Anh: **_One Hundred and One Dalmatians_**) là một phim hoạt hình sản xuất bởi Walt Disney dựa vào truyện cùng tên của Dodie Smith. Bộ phim là phim điện ảnh
**_Hành trình của Moana_** (tên gốc tiếng Anh: **_Moana_**, tên Việt khác là **_Cuộc hành trình của Moana_**, hay còn được biết đến với tên **_Vaiana_** ở một số quốc gia Châu Âu và **_Oceania_**
**_Thanh gươm trong đá_** (tựa tiếng Anh: **The Sword in the Stone**) là bộ phim hoạt hình ca nhạc hài kịch kỳ ảo của Mỹ sản xuất bởi Walt Disney và công chiếu tại rạp
**_Người đẹp tóc mây_** () là một bộ phim điện ảnh hoạt hình máy tính 3D thuộc thể loại nhạc kịch và phiêu lưu của Mỹ năm 2010 cốt truyện phim kể về một nàng
**John Alan Lasseter** (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1957) là một đạo diễn, họa sĩ hoạt hình, biên kịch, nhà sản xuất người Mỹ, hiện đang giữ vai trò giám đốc sáng tạo cho
**_The Nightmare Before Christmas_** (, thường được quảng bá với tên gọi **_Tim Burton's The Nightmare Before Christmas_** - _dịch nghĩa_ ) là phim điện ảnh hoạt hình stop-motion nhạc kịch kỳ ảo của Mỹ
**_Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn_** (tiếng Anh: _Snow White and the Seven Dwarfs_) là phim hoạt hình được sản xuất năm 1937, phim hoạt hình điện ảnh đầu tiên của Walt Disney. Mặc
**_Nàng tiên cá_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The Little Mermaid_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại nhạc kịchphiêu lưukỳ ảo công chiếu vào năm 2023 do Rob Marshall làm đạo diễn
**_Biệt Đội Big Hero 6_** (tựa gốc: _Big Hero 6_) là một bộ phim 3D siêu anh hùng được hoạt hình bằng máy tính của hãng Walt Disney Animation Studios dựa theo bộ truyện tranh