✨Vũ Ngọc Nhạ
Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002) là một Thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông có biệt danh Ông Cố vấn vì từng làm cố vấn cho một số chính trị gia cao cấp của Việt Nam Cộng hòa và là nhân vật chủ chốt trong vụ án cụm tình báo A.22 vào cuối năm 1969. Vũ Ngọc Nhạ và các đồng đội trong cụm A.22 đã lấy được nhiều tài liệu quan trọng, tuyệt mật của Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhằm phục vụ cho các đối sách và chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (quê cha) nhưng từ nhỏ sống tại quê mẹ - Giáo xứ Phát Diệm, Ninh Bình
Cuối năm 1946, ông tham gia chiến đấu chống Pháp tái chiếm Đông Dương tại mặt trận Hà Nội. Sau khi Việt Minh rút khỏi Hà Nội, ông trở về Thái Bình, tham gia công tác dân vận của chính quyền Việt Minh tại địa phương, phụ trách khối Công giáo vận, với bí danh là Lê Quang Kép. Năm 1951, để tiện hoạt động trong vùng bị Pháp kiểm soát, ông đã nhờ người em trai làm một chứng minh thư giả mang tên Vũ Ngọc Nhạ.
Năm 1950, quân Pháp tổ chức nhiều hoạt động càn quét, tảo thanh lớn ở Thái Bình, gây nhiều thiệt hại cho lực lượng kháng chiến. Vũ Ngọc Nhạ được cử làm Bí thư Thái Bình để củng cố và khôi phục lại lực lượng. Cùng năm đó, ông được cử làm Thị uỷ viên Thị xã Thái Bình và tham gia tổ chức phá căng Bo, giải cứu được tất cả những người kháng chiến bị quân Pháp giam giữ ở đây.
Năm 1952, Vũ Ngọc Nhạ (sử dụng tên Vũ Ngọc Kép) là thành viên của đoàn đại biểu quân sự tỉnh Thái Bình dự Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ tại Việt Bắc. Tại hội nghị này ông được chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ tìm hiểu thông tin về các hoạt động, ý định và dự định của Hoa Kỳ..
Người giúp việc của Giám mục Lê Hữu Từ
Vũ Ngọc Nhạ được Mười Hương chỉ đạo phải tạo mối quan hệ tốt với giám mục Lê Hữu Từ vì dòng tu của giám mục Từ được cho là có uy tín lớn trong giới Công giáo cũng như đối với Vatican. Đồng thời, căn cứ vào việc linh mục Hoàng Quỳnh là người chứng nhận chức trung úy tự vệ của Phát Diệm của Vũ Ngọc Nhạ, ông Mười Hương cũng yêu cầu ông Nhạ phải tạo quan hệ thân thiết với linh mục Quỳnh để từ đó tiếp cận giám mục Từ. Quan hệ tốt với linh mục Quỳnh và giám mục Từ đã giúp đỡ và bảo vệ Vũ Ngọc Nhạ rất nhiều trong công tác tình báo sau này.
Trong quá trình tạo vỏ bọc, Vũ Ngọc Nhạ và các đồng đội nhận ra được những điểm tế nhị trong mối quan hệ giữa giới Công giáo với chính quyền Sài Gòn. Lúc đó, thế lực nước ngoài có ảnh hưởng lớn nhất trong giới Công giáo không phải là Mỹ mà là Pháp, trong khi chính quyền Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng của Mỹ, vì vậy quan hệ giữa hai bên có những mâu thuẫn, nghi ngại. Họ Ngô muốn nắm lấy giới Công giáo làm chỗ dựa nhưng vì những khúc mắc đó nên vẫn chưa thành công. Như vậy, thông qua việc làm trung gian hoà giải giữa họ Ngô và giới Công giáo, cụ thể là linh mục Lê Hữu Từ, ông Nhạ có thể chiếm được lòng tin của cả hai bên. nhận diện nhưng ông vẫn hoạt động tại vùng Thái Bình cho đến cuối năm 1952. Vì lý do này, ông bị Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung bắt giữ và bị giam để chờ xác minh tại trại giam Tòa Khâm, Huế.
Một sơ hở lớn của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung là tập trung giam giữ khá nhiều tình báo viên tại trại Tòa Khâm. Trong thời gian bị giam giữ tại Tòa Khâm, Vũ Ngọc Nhạ đã móc nối được với một số tình báo viên khác, thậm chí nhận được sự chỉ đạo của lãnh đạo tình báo Mười Hương, khi đó cũng bị giam tại Tòa Khâm. Đồng thời, các tù nhân theo đạo Công giáo như Vũ Ngọc Nhạ lại được Ngô Đình Cẩn cho đi lễ nhà thờ vào chủ nhật. Nắm được điều đó, thượng cấp Mười Hương chỉ đạo cho ông Nhạ tiếp cận, liên lạc với Ngô Đình Cẩn cùng các chức sắc Công giáo bao gồm giám mục Lê Hữu Từ. Giám mục Từ biết được thân thế Phát Diệm và quan hệ với linh mục Hoàng Quỳnh, có ý muốn dùng ông Nhạ tác động lại Ngô Đình Cẩn. Về phía bên kia, họ Ngô cũng muốn dùng ông Nhạ để kết thân với giám mục Từ. làm Cụm trưởng, ông làm Cụm phó trực tiếp phụ trách lưới tình báo. Toàn bộ cụm A.22 được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Đức Trí, Chỉ huy phó Tình báo quân sự tại miền Nam.
Ban đầu cụm phát triển thêm Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Hữu Ruật đều là những tình báo viên mà Vũ Ngọc Nhạ đã bắt liên lạc lúc ông bị giam ở Tòa Khâm. Sau phát triển Nguyễn Xuân Đồng, và quan trọng nhất là vào đầu năm 1967, cụm được bổ sung Lê Hữu Thúy (hay Thắng), mật danh A.25.
Các điệp viên này đều được giao nhiệm vụ "chui sâu leo cao" vào những chức vụ quan trọng để có thể thu thập thông tin chiến lược và có thể tác động đến chính quyền. Thành công lớn nhất của Cụm A.22 là cắm được một cơ sở của Lê Hữu Thúy là Huỳnh Văn Trọng (nguyên Bộ trưởng Quốc gia Việt Nam thập niên 1950) vào vị trí Phụ tá tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Chính Huỳnh Văn Trọng dẫn đầu một phái đoàn ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ Johnson đối với cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời thu thập được nhiều thông tin tình báo chiến lược.
Vũ Ngọc Nhạ cùng cụm A.22 đã tham gia tổ chức chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968. Ông đã thông báo cho cấp trên việc Mỹ muốn huỷ bỏ lệnh ngưng bắn thường niên vào dịp Tết năm đó. Khi chiến dịch diễn ra, Vũ Ngọc Nhạ có nhiệm vụ yểm hộ cho biệt động quân Giải phóng đánh vào Dinh Độc Lập, ông đã khui hầm rượu của Nguyễn Văn Thiệu cho quân lính uống say để biệt động Giải phóng dễ dàng "xử lý". Tuy nhiên kế hoạch đánh Dinh Độc Lập không thực hiện được, lúc đó Nguyễn Văn Thiệu cũng không có ở dinh mà về quê vợ ở Mỹ Tho để ăn tết. Vũ Ngọc Nhạ liền ứng biến bằng cách vờ đứng ra cổ vũ quân canh phòng chống trả mạnh mẽ quân Giải phóng. Hành động này khiến cho Nguyễn Văn Thiệu rất cảm kích. Thiệu cũng cho rằng ông Nhạ cho binh lính uống rượu là để nâng cao sĩ khí nên đã hết lời khen ngợi. Sau lần đó, Nguyễn Văn Thiệu đã tặng cho ông một thanh kiếm với quyền hành thay thế Thiệu chủ trì các cuộc họp nội các khi Thiệu vắng mặt.
Từ năm 1968, thấy rõ leo thang chiến tranh không mang lại kết quả, Mỹ quyết định tìm cách rút khỏi chiến tranh thông qua đàm phán tại Paris. Trong thời gian này, người Mỹ cấp tốc xây dựng và thực hiện “Kế hoạch bình định cấp tốc 1968-1969” cùng nhiều biện pháp khác để đạt được ưu thế trên bàn đàm phán và xuống thang chiến tranh trong thế mạnh. Vì vậy Vũ Ngọc Nhạ được giao nhiệm vụ tìm hiểu nội dung các kế hoạch này và tình hình chính trị Mỹ. Ông tác động với Thiệu viết ủy nhiệm thư và cử phái đoàn cấp cao đứng đầu bởi Huỳnh Văn Trọng sang Mỹ thương thảo để xin viện trợ. Huỳnh Văn Trọng liền lấy lý do "chuẩn bị trước cho chuyến đi" để đến Đại sứ quán Mỹ lấy được bản “Kế hoạch bình định 1968-1969”, “Chương trình Phoenix 1968” của Como và “Kế hoạch bình định cấp tốc”. Chuyến đi Mỹ sau đó xin được nhiều viện trợ khiến Nguyễn Văn Thiệu rất vui mừng. Vì vậy ông Nhạ được Nguyễn Văn Thiệu gửi tặng cây bút máy mà mình dùng để ký nhận các khoản viện trợ.
Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 ông điệp báo
Tuy tổ chức rất chặt chẽ, nhưng do hoạt động mạnh và có ảnh hưởng đến chính giới cũng như chính quyền Sài Gòn, CIA nhanh chóng phát hiện thấy điều không bình thường của những nhân vật riêng rẽ này, "Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại".
Nếu bị kết án gián điệp, các thành viên của cụm A.22 có thể bị kết án tử hình. Tuy nhiên cụm tình báo đã đi một nước cờ xoay chuyển tình thế: biến vụ án gián điệp thành vụ án chính trị, lợi dụng mức ảnh hưởng và mối quan hệ sâu rộng, các bằng chứng công khai, cũng như tình thế chính trị bấy giờ để dẫn phiên tòa vào thế bế tắc. Các tình báo viên đã khiến báo giới và dư luận Sài Gòn lúc đó nghĩ rằng vụ bắt bớ này là thủ đoạn đấu đá chính trị của các phe phái trong chính quyền Sài Gòn và cái tội danh “điệp viên, tình báo” chỉ là cái cớ được dựng lên.
Một số thành viên của A.22 bị đưa ra Côn Đảo giam giữ, Vũ Ngọc Nhạ và một số thành viên khác bị giam ở Sài Gòn một thời gian rồi cũng được đưa ra Côn Đảo. Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thuý bị giữ một thời gian tại khu biệt giam tại Đặc ủy tình báo số 3A Bạch Đằng, một nơi tra khảo khét tiếng của CIA, trong điều kiện nhiệt độ thay đổi đột ngột, thường xuyên bị truy vấn bằng máy kiểm tra nói dối và nhiều hình thức tra khảo khác. Điều này khiến sức khoẻ của hai ông bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Sự thành công này còn đạt được một kết quả bất ngờ: khi Cụm Tình báo A.22 bại lộ, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa và không muốn tin vào sự thật, còn cho rằng đây là âm mưu của CIA dàn cảnh để triệt hạ người thân tín của mình. Ông còn trao đổi thư từ và gặp mặt trực tiếp với nhiều chức sắc tôn giáo và chính trị gia người Việt lẫn Mỹ. Về phía Vatican, trong buổi lễ ngày 23 tháng 6 năm 1971, Vũ Ngọc Nhạ được giáo hoàng Phaolô VI ca ngợi, ban ơn chết lành và được tặng bằng khen cùng huy chương. Một linh mục khâm sai của Vatican đã đến khám Chí Hoà trao phần thưởng của giáo hoàng cho ông Nhạ vào ngày 25 tháng 6.
Tiếp tục hoạt động
Đầu năm 1973, Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về trại giam Chí Hòa quản thúc theo quy chế tù chính trị theo Hiệp định Paris. Trong thời gian này, lợi dụng ảnh hưởng của mình và nhờ sự giúp đỡ của linh mục Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ nối lại mối quan hệ với các tổ chức chính trị thuộc "Lực lượng thứ 3" do tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Lo ngại những hoạt động của ông có thể gây ảnh hưởng xấu đến chính quyền, ngày 23 tháng 7 năm 1973, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trao trả ông tại Lộc Ninh cho phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, với danh xưng là "linh mục Giải phóng", với mục đích đẩy ông ra xa các hoạt động của chính giới Sài Gòn.
Sau khi được trao trả, cuối năm 1973, ông được đưa về Phòng tình báo quân sự để làm công tác xác minh. Đầu năm 1974, sau khi đã kiểm tra thông tin, ông được khôi phục hoạt động bí mật và được công nhận quân hàm Trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này, ông đồng thời nhận được quyết định khen thưởng về thành tích của Cụm A.22 đồng thời với quyết định kỷ luật cảnh cáo vì chịu trách nhiệm trong việc lưới tình báo này bị vỡ.
Vũ Ngọc Nhạ có khả năng "diễn xuất" nhập vai đến mức đồng đội của mình cũng ngạc nhiên. Ông Mai Chí Thọ từng nhận xét "Từ dáng đi, giọng nói đôi mắt đến tính cách, y như là một cố đạo phản động. [...] Một đồng chí của ta “đội lốt” kẻ địch đến mức người của ta cũng không nhận ra quả là điều kỳ diệu đối với nghệ thuật tình báo mà chính tôi cũng không thể tưởng tượng." Cũng chính vì đóng vai người bên kia chiến tuyến nên suốt một thời gian dài, gia đình họ hàng của vợ chồng ông Nhạ bị tiếng oan là nhà có người phản bội. Mãi sau khi chiến tranh kết thúc, lúc hai vợ chồng ông được Đảng và Quân đội đón về quê thì người làng mới biết "kẻ phản bội" thực chất là người của cách mạng cài vào lòng địch.
Theo nhà văn Hữu Mai, Vũ Ngọc Nhạ có khả năng cảm hoá đối phương bằng nhân cách và đạo đức của mình. Nhiều nhân viên tình báo đã phải dùng các biện pháp lừa lọc, gây sức ép, hoặc lợi dụng sự sơ hở để khai thác thông tin, tuy nhiên ông Nhạ không làm như vậy mà chỉ sử dụng những biện pháp rất "đời". Vũ Ngọc Nhạ thể hiện mình như một tu sĩ nhân từ, giúp đỡ và cảm hoá người khác, đó là biện pháp rất ít tình báo viên thực hiện được.