✨USS Thomas (DE-102)
USS Thomas (DE-102) là một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Đại úy Hải quân Clarence Crase Thomas (1886-1917), người được biệt phái cùng đội vũ trang trên tàu buôn , và đã tử trận khi Vacuum bị tàu ngầm Đức phóng ngư lôi đánh chìm; Thomas trở thành sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ đầu tiên tử trận trong Thế Chiến I, ông được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo /50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 201 thủy thủ.
Thomas được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Dravo Corporation ở Wilmington, Delaware vào ngày 16 tháng 1, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 7, 1943, được đỡ đầu bởi bà Herndon B. Kelly, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 11, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân David M. Kellogg.
Lịch sử hoạt động
USS Thomas
Lên đường đi Bermuda vào ngày 7 tháng 12, 1943, Thomas tiến hành chạy thử máy huấn luyện cho đến ngày 15 tháng 1, 1944. Vào đầu tháng 2, nó phục vụ như tàu huấn luyện tại Norfolk, Virginia cho đến khi gia nhập Đội đặc nhiệm 21.16, một đội tìm-diệt chống tàu ngầm được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống . Trong giai đoạn nó hoạt động cùng đơn vị này cho đến ngày 31 tháng 3, đội tìm-diệt đã đánh chìm ba tàu ngầm U-boat Đức tại Đại Tây Dương.
Trong khi đó, Bronstein phát hiện ra một mục tiêu khác qua sonar và đã tấn công bằng một loạt mìn sâu. Nó báo cáo đã đánh chìm tàu ngầm U-603; tuy nhiên việc tra cứu tài liệu của Hải quân Đức sau chiến tranh không thể xác nhận chiến công này, vì U-603 được ghi nhận đã mất liên lạc gần hai tuần trước đó. Đến ngày 17 tháng 3, Bronstein và phối hợp cùng 3 máy bay xuất phát từ Block Island đã đánh chìm tàu ngầm U-801 tại tọa độ với tổn thất nhân mạng 10 người tử trận và 47 người sống sót.
Rời Norfolk vào ngày 13 tháng 4, Thomas hộ tống cho Đoàn tàu UGS 39 đi sang Bắc Phi, và quay trở về cùng với Đoàn tàu GUS 39 vào ngày 29 tháng 4. Đến ngày 10 tháng 6, con tàu lại được điều động gia nhập Đội đặc nhiệm 22.10, một đội tìm-diệt tàu ngầm được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống , và hoạt động truy lùng tàu ngầm đối phương dọc theo tuyến hàng hải chính vượt Đại Tây Dương. Lúc hoàng hôn ngày 5 tháng 7 tại một vị trí cách về phía Nam đảo Sable, tàu hộ tống khu trục phát hiện một mục tiêu qua sonar; hai loạt mìn sâu mà nó tấn công đã buộc tàu ngầm đối phương phải nổi lên mặt nước. Thomas đã tấn công bằng hải pháo rồi húc vào chiếc tàu ngầm vào phần phía sau chiếc U-boat cách tháp chỉ huy . U-233 đắm chỉ trong vòng một phút với phần đuôi chìm trước tại tọa độ và tổn thất nhân mạng 32 người tử trận. Thomas đã cứu vớt 20 người sống sót bao gồm hạm trưởng chiếc U-boat. Nó được cho tách ra khỏi đội tìm-diệt hai ngày sau đó, và quay trở về Xưởng hải quân Boston để sửa chữa.
Hơn một tuần lễ sau đó, Đức Quốc Xã đầu hàng, kết thúc cuộc xung đột tại Đại Tây Dương. Thomas tiếp tục tuần tra lại khu vực các eo biển Long Island và Block Island trong tháng 5 và tháng 6, chuyển sang phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay hộ tống trong tháng 7 và tháng 8, rồi hoạt động tương tự cho tàu sân bay hộ tống trong tháng 9 và tháng 10. Vào ngày 27 tháng 10, con tàu đi đến cảng để tham gia những lễ hội nhân ngày Hải quân, rồi trong tháng 11 đã hộ tống chiếc tàu ngầm U-boat U-530 đi đến nhiều cảng tại Texas.
Cùng với chính phủ và lực lượng Quốc dân Đảng, Tai Ho triệt thoái sang Đài Loan vào năm 1949. Nó tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Đài Loan cho đến khi ngừng hoạt động năm 1972 và bị tháo dỡ sau đó.
Phần thưởng
Thomas được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.