✨U-377 (tàu ngầm Đức)

U-377 (tàu ngầm Đức)

U-377 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được mười một chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-377 mất tích từ ngày 17 tháng 1, 1944, có thể đã bị các tàu khu trục và tàu frigate thuộc Hải quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm vào ngày 17 tháng 1, 1944.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-377 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939, Nơi đây trở thành cảng nhà và là căn cứ hoạt động chính của chiếc tàu ngầm cho đến hết năm 1942. từ ngày 5 đến ngày 19 tháng 4 để hoạt động trong biển Na Uy cho đến chung quanh đảo Bear; và từ ngày 25 tháng 5 đến ngày 2 tháng 6 để hoạt động trong biển Barents. Nó không đánh chìm được mục tiêu nào trong cả ba chuyến đi này.

Chuyến tuần tra thứ năm, thứ sáu và thứ bảy

Sau khi di chuyển từ Narvik đến cảng Trondhelm, Na Uy vào đầu tháng 6, U-377 khởi hành từ đây vào ngày 18 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ năm, và hoạt động tại khu vực phụ cận đảo Bear trước khi trở lại Trondhelm vào ngày 25 tháng 7.

Nó tiếp tục chuyến tuần tra tiếp theo từ Trondhelm vào ngày 30 tháng 8, để hoạt động trong biển Na Uy về phía Nam quần đảo Svalbard và trong biển Barents đến tận phía Tây quần đảo Novaya Zemlya. Con tàu kết thúc chuyến tuần tra tại Skjomenfjord vào ngày 24 tháng 9.

Chuyến tuần tra thứ bảy bắt đầu tại Skjomenfjord vào ngày 7 tháng 10, và kéo dài cho đến ngày 13 tháng 11, với một chặng dừng tại cảng Narvik từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 10. Chiếc U-boat đã hoạt động trong biển Na Uy tại khu vực quần đảo Svalbard, Và sau khi kết thúc chuyến đi tại Narvik , chiếc tàu ngầm lần lượt di chuyển đến các cảng Trondhelm và Bergen, Na Uy vào cuối tháng 11. U-377 được chính thức điều sang Chi hạm đội U-boat 9 đặt căn cứ tại Pháp từ ngày 1 tháng 3.

Con tàu lại có chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày 26 tháng 8 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới, Trung úy Hải quân Gerhard Kluth. Vào ngày 22 tháng 9, nó bị một máy bay ném bom B-24 Liberator thuộc Liên đội 10 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, khiến hạm trưởng bị thương. Chiếc U-boat quay trở về cảng dưới quyền chỉ huy tạm thời của Hạm phó, Thiếu úy Hải quân Ernst-August Gerke, đến nơi vào ngày 10 tháng 10. Chiếc tàu ngầm gửi báo cáo cuối cùng về căn cứ vào ngày 15 tháng 1, 1944, cho biết đã tấn công một đội tìm-diệt tàu ngầm đối phương bằng ngư lôi dò âm. Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức dự kiến con tàu sẽ về đến vùng bờ biển Pháp vào khoảng ngày 29 tháng 1, nên khi nó không có mặt vào ngày 10 tháng 2, con tàu được cho là mất tích từ ngày 4 tháng 2.

Sau chiến tranh phía Đồng Minh không thể xác định lý do U-377 bị mất tích với bất kỳ hoạt động chống ngầm nào, nên chiếc U-boat được xem là mất không rõ nguyên nhân. Vào khoảng thời gian chiếc tàu ngầm bị mất, Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức nhận được hai bức điện khẩn rời rạc, mã hóa và không ký tên, nên đưa đến giả thuyết cho rằng U-377 bị đánh chìm bởi một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm của chính nó, và giả thuyết này được nhiều nguồn công nhận.

Tuy nhiên đã một đợt tấn công bằng mìn sâu từ các tàu khu trục và tàu frigate thuộc Hải quân Hoàng gia Anh diễn ra tại tọa độ vào ngày 17 tháng 1, và kéo dài trong suốt hai ngày. Nơi đây cách vị trí cuối cùng được biết của U-377 khoảng , cũng như nằm trên lộ trình di chuyển của chiếc U-boat nếu như nó di chuyển chậm để tiết kiệm nhiên liệu, khiến có thể là câu trả lời sau cùng về số phận của U-377.

"Bầy sói" tham gia

U-377 từng tham gia 15 bầy sói:

  • Aufnahme (7 – 11 tháng 3, 1942)
  • Blücher (11 – 18 tháng 3, 1942)
  • Bums (6 – 14 tháng 4, 1942)
  • Blutrausch (15 – 17 tháng 4, 1942)
  • Trägertod (12 – 21 tháng 9, 1942)
  • Ritter (11 – 21 tháng 2, 1943)
  • Neptun (22 tháng 2 – 2 tháng 3, 1943)
  • Amsel (22 tháng 4 – 3 tháng 5, 1943)
  • Amsel 2 (3 – 6 tháng 5, 1943)
  • Elbe (7 – 10 tháng 5, 1943)
  • Elbe 2 (10 – 14 tháng 5, 1943)
  • Leuthen (15 – 22 tháng 9, 1943)
  • Borkum (24 tháng 12, 1943 – 3 tháng 1, 1944)
  • Borkum 3 (3 – 13 tháng 1, 1944)
  • Rügen (13 – 17 tháng 1, 1944)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-377_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-305_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-378_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**USS _Santee_ (ACV/CVE/CVHE-29)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Bulmer_ (DD-222/AG-86)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**Thủ Đức** là một thành phố cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tiền thân của thành phố Thủ Đức là huyện Thủ Đức cũ trước khi bị chia tách thành ba quận
**Shinhwa** () là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc có 6 thành viên, bao gồm Eric Mun, Lee Min-woo, Kim Dong-wan, Shin Hye-sung, Jun Jin và Andy Lee. Được SM Entertainment lần đầu giới thiệu
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm