✨U-376 (tàu ngầm Đức)

U-376 (tàu ngầm Đức)

U-376 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra và đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng . U-376 mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông vào ngày 7 tháng 4, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-376 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939, Tại đây vào ngày 30 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Induna , vốn di chuyển trong thành phần Đoàn tàu PQ 13 và đang trên đường đi sang cảng Murmansk, Liên Xô. Trong tổng số 66 thành viên thủy thủ đoàn của Induna, 41 người lên được trên hai xuồng cứu sinh lênh đênh trên biển trong thời tiết lạnh đến , và chỉ còn 30 người sống sót khi họ được một tàu quét mìn Liên Xô cứu vớt vào ngày 2 tháng 4, nhưng có thêm hai người khác qua đời sau đó. Kết thúc chuyến tuần tra, chiếc U-boat đi đến cảng Kirkenes ở phía cực Bắc Na Uy vào ngày 1 tháng 4.

Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm

Chiếc tàu ngầm sau đó chuyển căn cứ hoạt động đến cảng Bergen Na Uy trong tháng 5, Tại đây vào ngày 10 tháng 7, nó phóng hai quả ngư lôi kết liễu Hoosier . Chiếc tàu buôn Hoa Kỳ, vốn nằm trong thành phần Đoàn tàu PQ-17 và bị hư hại sau khi trúng bom từ các máy bay ném bom Junkers Ju 88 một ngày trước đó, bị bỏ lại do mối đe dọa của tàu ngầm U-255, và bị U-376 đánh chìm tại tọa độ .

U-376 kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Narvik vào ngày 15 tháng 7, rồi di chuyển đến Bergen ba ngày sau đó trước khi được đại tu và sửa chữa tại Wilhelmshaven và Kiel từ tháng 8 đến tháng 10. Nó trở lại Bergen vào ngày 25 tháng 10, rồi đi đến Skjomenfjord vào ngày 3 tháng 11. Con tàu lại di chuyển đến cảng Bergen vào giữa tháng 12.

Nó khởi hành trở lại vào ngày 30 tháng 1, nhưng trong đêm đó sĩ quan trực cầu tàu bị sóng cuốn trôi xuống biển, nên con tàu phải quay về cảng để nhận người thay thế, và lên đường trở lại ngay sau đó. Chuyến tuần tra thứ bảy này đưa con tàu sang vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Greenland, sau khi băng qua khe GI-UK giữa quần đảo Faroe và Greenland để vòng qua quần đảo Anh, và kết thúc khi đi đến cảng La Pallice tại La Rochelle, bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, vào ngày 13 tháng 3. U-376 được chính thức điều sang Chi hạm đội U-boat 3 đặt căn cứ tại Pháp từ ngày 1 tháng 3. Nó được dự định sẽ băng qua Đại Tây Dương đến đảo Hoàng tử Edward, Canada, nhằm di tản các tù binh chiến tranh Đức đào thoát khỏi trại tù binh trong Chiến dịch Elster. Nhiệm vụ này cũng được giao cho tàu ngầm U-262, vốn đã rời cảng La Pallice trước đó vào ngày 27 tháng 3, nhưng phải quay trở lại căn cứ do trục trặc hệ thống thông khí, và lên đường trở lại vào ngày 7 tháng 4.

Đến 05 giờ 17 phút ngày 10 tháng 4, Bộ Tổng tư lệnh Tàu ngầm Đức ra chỉ thị cho Đại úy Marks, hạm trưởng U-376: "chuyển hướng phù hợp theo mệnh lệnh đặc biệt..." ám chỉ việc xúc tiến Chiến dịch Elster. Tuy nhiên U-376 đã không hồi đáp hay báo cáo về căn cứ trong ba ngày liên tiếp, và được cho là đã mất tích vào ngày 15 tháng 4. U-262 được lệnh thay thế cho U-376 thực hiện Chiến dịch Elster. U-376 được cho là đã bị mất tích trong vịnh Biscay từ ngày 7 tháng 4, 1943, với tổn thất toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.

Trước đây U-376 được tin là đã bị một máy bay ném bom Vickers Wellington thuộc Liên đội 172 Không quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm vào ngày 10 tháng 4, 1943 trong vịnh Biscay về phía Tây Nantes, Pháp, tại tọa độ . Vụ tấn công này thật ra nhắm vào U-465, gây ra thiệt hại đáng kể cho chiếc tàu ngầm. Một nguồn khác ghi nhận các tàu tuần tra Hoa Kỳ , USS Intensity_ và đã tiến hành một cuộc tập trận ngoài khơi mũi North thuộc đảo Hoàng tử Edward, Canada vào sáng ngày 7 tháng 5. Trong quá trình tập trận, một tàu ngầm không rõ nhận dạng đã bị đánh chìm, nhưng không thể khẳng định đó là _U-376''.

"Bầy sói" tham gia

U-376 từng tham gia chín bầy sói:

  • Zieten (23 – 29 tháng 3, 1942)
  • Eiswolf (29 – 31 tháng 3, 1942)
  • Robbenschlag (7 – 14 tháng 4, 1942)
  • Blutrausch (15 – 19 tháng 4, 1942)
  • Strauchritter (29 tháng 4 – 5 tháng 5, 1942)
  • Eisteufel (1 – 4 tháng 7, 1942)
  • Eisteufel (6 – 12 tháng 7, 1942)
  • Boreas (19 tháng 11 – 7 tháng 12, 1942)
  • Neptun (18 tháng 2 – 2 tháng 3, 1943)

Tóm tắt chiến công

U-376 đã đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng :

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-376_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**Bogotá**, tên chính thức **Bogotá, D. C.** (D.C. viết tắt của _Distrito Capital_, "quận thủ đô" hay "đặc khu") là thủ đô của Colombia, và cũng là thành phố lớn nhất quốc gia này với
**Penang** (tiếng Mã Lai: _Pulau Pinang_) là một bang tại Malaysia và được định danh theo đảo cấu thành nên bang. Bang Penang nằm ở vùng bờ biển tây bắc của Malaysia bán đảo, sát
**Abraham Lincoln** (; 12 tháng 2 năm 1809 – 15 tháng 4 năm 1865) là một chính khách và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ năm 1861 cho đến