✨Trần Thị Đang

Trần Thị Đang

Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (chữ Hán: 順天高皇后, 4 tháng 1 năm 1769 - 6 tháng 11 năm 1846) tên thật là Trần Thị Đang (陳氏璫), là một phi tần của Nguyễn Thế Tổ Gia Long, mẹ đẻ của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng. Bà trở thành Hoàng thái hậu của triều đình nhà Nguyễn khi vua Minh Mạng lên ngôi. Sau khi vua Minh Mạng qua đời, bà trở thành Thái hoàng thái hậu dưới thời cháu nội mình là Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị.

Cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, bà là một trong hai người vợ gắn bó với Gia Long thuở hàn vi, lập nghiệp. Bà hưởng phúc đến đời cháu Thiệu Trị, hưởng cảnh ngũ đại đồng đường, ở ngôi vị cao quý nhất hậu cung nhà Nguyễn từ khi Thừa Thiên Cao Hoàng hậu mất vào năm 1814 đến khi bà qua đời vào năm 1846, tổng cộng 32 năm.

Thân thế

Bà tên húy là Đang (璫), lại húy là Kính (敬), con gái thứ của Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt (陳興達) (1746 - 1810) và Thọ Quốc phu nhân Lê thị. Gia tộc bà vốn gốc Thanh Hóa, tiên tổ là Trần Phúc Tư buổi đầu năm 1558 theo chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp, định cư ở huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên.

Nhà họ Trần nhiều đời làm ăn lương thiện, tuy cũng có người làm quan nhưng chưa hiển đạt lắm. Đến đời ông nội bà là Trần Mậu Quế (陳茂桂) làm quan tri phủ dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chú, tham gia đánh Chân Lạp có công nên được thăng đến chức ký lục hai trấn Trấn Biên và Hà Tiên. Do đó cha bà được tập ấm, vào làm quan ở viện Hàn lâm.

Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), cụ nội bà là Trần Mậu Tài (陳茂材), được truy phong Thị trung trực Học sĩ, tước Văn Xá bá (文舍伯), thụy là Trực Lượng; Tổ phụ Trần Mậu Quế được phong Lại bộ Thượng thư, tước Gia Bình Hầu (嘉平侯), thụy là Đoan Hậu. Mùa đông năm Minh Mạng thứ 5 (1824), tiên tổ năm đời Trần Phúc Tư được truy tặng Hàn lâm viện thị độc học sĩ, thụy là Uyên Mục; tiên tổ bốn đời Trần Văn Thuật làm Thái bộc Tự khanh, thụy là Đôn Nhã.

Phi thiếp của Nguyễn vương

Khi quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân (đầu năm 1775), thân mẫu của chúa Nguyễn Ánh là Ý Tĩnh Khang hoàng hậu lánh nạn ở làng An Du, Cửa Tùng, bà được tuyển vào hầu cận vì là con nhà danh giá. Năm 1778, chúa Nguyễn Ánh sai người rước mẹ vào Gia Định, qua năm Kỷ Hợi 1779, bà cùng các chị em của Nguyễn Ánh cũng vào theo. Bà khi 12 tuổi (1781) được tấn phong là Tả cung tần (左宮嬪), tục gọi là Nhị phi (二妃).

Khi quân Tây Sơn còn mạnh thế, bà theo chúa Nguyễn Ánh phiêu bạt nhiều nơi, đêm thường thắp hương cầu khẩn: "Lúc này vận nước còn khó khăn, chưa được an định, nếu sinh con mà bỏ đi thì bất nhân mà mang theo chỉ bận lòng chúa thượng. Nếu số mệnh có con thì xin thái bình rồi mới sinh, mong trời ban được như thế".

Năm 1788, sau khi chúa Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, một đêm bà nằm mộng thấy một vị thần dâng lên một cái tỉ và hai cái ấn ngọc; cái tỉ màu sắc đỏ bóng nhẫy tươi sáng như mặt trời; một cái ấn thì sắc tía, cái kia thì sắc rất nhạt, bà nhận lấy tất cả.

Năm 1791, bà sinh ra hoàng tử thứ tư là Đảm, tức vua Minh Mạng, ở thôn Hoạt Lộc (thuộc Gia Định).

Năm Gia Long thứ 11 (1812), cháu trai thứ ba của bà là Nguyễn Phúc Yến mất mẹ khi vừa lên 3 tuổi, được bà đón vào cung nuôi dưỡng. .

Thời Minh Mạng

Vào thời Minh Mạng, Thuận Thiên Cao Hoàng hậu từng quan tâm bỏ tiền của nhằm tu sửa nhiều chùa chiền ở khu vực huyện Hương Trà.

Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), bắt đầu xây cung Từ Thọ, phong thưởng cho người họ ngoại. Các quan cùng vua xin dâng tôn hiệu bà lên làm Hoàng thái hậu, bà cảm thấy vua Gia Long chưa chôn cất được bao lâu, Hoàng đế nối ngôi lại vì chuyện mà lo buồn, sợ hãi, ấy vì thế mà khước từ đi.

Mùa đông năm 1820, cung Từ Thọ xây xong. Mùa xuân năm 1821, vua Minh Mạng cùng bá quan dâng biểu tấn tôn bà làm Hoàng thái hậu. Bà vốn tính cần kiệm, từng đặt nhà thêu nuôi tằm trong cung, hằng ngày đều đến trông nom để làm vui.. Vua thường bảo quần thần rằng: “Cung Từ Thọ có nhà nuôi tằm, ươm được nhiều tơ. Đó bởi mẹ ta có tính cần cù, biết rõ trồng dâu chăn tằm là nguồn gốc để may mặc, nên tự mình nuôi tằm ươm tơ, để làm gương cho người trong cung và Kinh đô. Nếu không thế, ta lấy của thiên hạ nuôi mẹ, còn có thiếu gì mà phải nuôi tằm.”.

Mùa xuân năm Minh Mạng thứ 7 (1826), con trai thứ 28 của Hoàng đế là hoàng tử Miên Trạch 3 tuổi, tư chất thông minh, được Hoàng thái hậu rất yêu, một hôm bị cảm gió, Hoàng thái hậu tự mình bế ẵm, không khiến cung nữ, vua ngồi hầu bên cạnh xin bế thay cũng không cho. Vua ra coi chầu, bảo các thị thần rằng: “Cha con là nghĩa thân tự trời, chỉ lo có đau ốm tất không thể không quan tâm được; nhưng nghĩ Miên Trạch là trẻ con mà làm lo phiền cho thái hậu đến thế, lòng trẫm cũng chán lắm.".

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Hoàng đế truy tôn cha bà làm Đông các Học sĩ, hàm Thái phó, phong là Hoa Quốc công (華國公), Lê Phu nhân mẹ bà là Nhất phẩm Hoa Quốc phu nhân (一品華國夫人).

Khi Hoàng đế Minh Mạng đến hầu cơm, bà thường đứng dậy đi lại để tỏ ra khỏe mạnh, lại dạy rằng: "Ta biết Hoàng đế chăm lo suốt ngày, há nỡ lấy cái tuổi gần 70 mà lại làm lụy cho con, cho nên hàng ngày cố gắng ăn thêm, tự thấy tâm thần thảnh thơi, Hoàng đế nên chớ phải lo". Hoàng đế cả mừng, khóc lạy tạ.

Mùa đông năm Minh Mạng thứ 18, tháng 11 ngày Canh Dần ( tức ngày 13 tháng 12 năm 1837), nhân dịp Thánh thọ 70 tuổi của bà, Hoàng đế cùng bá quan dâng tôn hiệu là Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng Thái Hậu (仁宣慈慶皇太后). Sách văn rằng:

Năm 1840, vua Minh Mạng mất, tôn chiếu Hoàng tử trưởng Trường Khánh Công Miên Tông lên nối ngôi, tức Thiệu Trị. Quan đại thần Trương Đăng Quế tâu lên, bà dụ rằng cha truyền con nối là đạo thường xưa, văn võ bá quan phải dốc toàn tâm để giúp đỡ tân đế.

Thời Thiệu Trị

Năm Thiệu Trị thứ nhất, tháng 3 ngày Nhâm Tý (tức 18 tháng 4 năm 1841) Hoàng đế Thiệu Trị dâng tôn hiệu cho bà là Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái Hậu (仁宣慈慶太皇太后). Sách văn rằng:

Mùa hạ cùng năm, Hoàng đế Thiệu Trị truy phong cha bà lên làm Cần chính điện đại học sĩ Thái sư, tước hiệu là Thọ Quốc công (壽國公), Lê phu nhân là Thọ Quốc nhất phẩm phu nhân (壽國一品夫人).

Mỗi khi rỗi việc, vua Thiệu Trị lại đến cung Từ Thọ hỏi han sức khỏe bà. Bà thường thong dong dặn dò vua về việc tin dùng người cũ, tuân theo phép nước, tiếp nối ý chí và việc làm của ông cha sao cho xứng đáng là một vị Hoàng đế. Lại cho bài luận về vua tôi, dạy bảo rất cặn kẽ cho vua nghe.

Khi Thiệu Trị đến hầu cơm, bà dụ rằng: " Hoàng đế hầu cơm, đi bằng đầu gối, dâng đũa chính tay điều hòa nước canh, vui vẻ dâng chén, nhất nhất đều tuân theo chí của người trước, tình lễ thực là đầy đủ cả". Hoàng đế giơ tay lên trán mà lạy tạ.

Bà thường dạo chơi vườn Thường Mậu, lên lầu Ký Ân, xa có thể trông thấy ruộng tịch điền, dụ rằng: "Thánh Tổ Nhân hoàng đế (tức Minh Mạng) yêu quý, chú ý đến Hoàng đế (tức Thiệu Trị), khác hẳn những người con khác, Tổ mẫu già này biết rõ từ lâu. Năm trước Thánh tổ Nhân Hoàng đế dựng ra vườn này, vì sợ sự giàu sang dễ thành ra kiêu căng xa xỉ, không biết lo cho dân, thương nhà nông, cho nên dựng nhà phủ đệ cho Hoàng đế ở trước ruộng tịch điền, khiến cho Hoàng đế biết cấy gặt khó nhọc. Hoàng đế nên nghĩ kỹ về tiết kiệm, chớ xa xỉ về ăn uống, sửa sang cung điện nhà vườn để làm vui, thực không phải là chí của người trước."

Mùa xuân năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua Thiệu Trị tuần du ra Bắc. Vua từng có ý muốn để Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm lưu lại Kinh đô vì lo con trưởng Hồng Bảo không làm được việc. Song Thái hoàng thái hậu lại cho rằng tuy Hồng Bảo ít học, nhưng Hoàng trưởng tử lưu kinh đã là lệ cũ, hơn nữa bên cạnh vẫn có các đại thần giúp việc, cho nên không cần thay đổi. Vua không dám trái ý bà, cuối cùng để Hồng Bảo ở lại Kinh đô, đưa Hoàng tử thứ hai theo mình ra Bắc.

Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), Thái hoàng thái hậu đến chơi vườn Cơ Hạ. Hoàng đế Thiệu Trị quỳ đón ở cửa vườn, đi trước dẫn đường, theo sau là võng chở bà đi thưởng ngoạn. Khi coi ao Minh Giám, thấy cá làm sóng gợn, câu được nhiều cá tốt, bà lại dụ rằng: "Cá ở ao không lo chài lưới, đầm ruộng cũng chẳng hơn thế, đạo nhân quân làm chính trị, cốt nên thân người hiền xa kẻ gian, răn xa xỉ, chuộng tiết kiệm, Hoàng đế nên nhớ kỹ đấy.".

Đầu mùa hạ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), vua cho đúc ấn vàng Từ Thọ cung bảo dâng lên cho bà để khi có công việc trong cung thì sử dụng.

Cũng trong năm đó, trong cung có việc tốt là "ngũ đại đồng đường". Chắt lớn nhất của bà, tức hoàng trưởng tử của vua Thiệu Trị là An Phong công Hồng Bảo sinh con đầu lòng đặt tên là Ưng Phúc. Ưng Phúc được ẵm vào hầu trong cung Từ Thọ và cho nuôi nấng ở trong cung. Ngũ đại đồng đường vốn là việc hiếm thấy xưa nay, cho nên tháng 11 ngày Kỷ Mùi (tức 30 tháng 11 năm 1845), vua Thiệu Trị dâng kim sách tấn tôn bà là Thánh Tổ Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu (聖祖母仁宣慈慶福壽康寧太皇太后).

Qua đời và hậu sự

Qua đời

Tháng 8 ngày 13 năm Thiệu Trị thứ 6 (tức 2 tháng 10 năm 1846), Thái hoàng thái hậu lâm bệnh nặng, qua giờ Dậu ngày 18 tháng 9 âm lịch (tức ngày 6 tháng 11 dương lịch) thì qua đời, hưởng thọ 77 tuổi, quan tài để ở cung Từ Thọ . Tháng 11 ngày 20 (tức 6 tháng 1 năm 1847), Hiến Tổ Thiệu Trị dâng tôn hiệu là Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dụ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng hậu (順天興聖光裕化基仁宣慈慶德澤元功高皇后), gọi tắt là Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (順天高皇后). Sách văn rằng:

Hậu sự

Lăng mộ của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu nằm ở bên phải lăng Thiên Thọ, trên núi Thuận Sơn, huyện Hương Trà, gọi là lăng Thiên Thọ Hữu. Bên phải núi Thuận Sơn là núi Mỹ Sơn dựng điện Gia Thành để thờ cúng.

Cuối thời Minh Mạng, vua phái văn võ đại thần, Khâm thiên giám cùng thầy địa lý tìm đất tốt gần lăng Thiên Thọ, cuối cùng chọn được ngôi đất tốt ở Thuận Sơn, thích hợp làm phần mộ muôn năm lâu dài. Vua cho rằng đất núi Thuận Sơn vừa gần với lăng Thiên Thọ mà lại ở về phía bên phải, theo lẽ đã thuận về tự nhiên; lại được cây tùng cây bách xanh tốt, núi sông ôm quanh, là một chỗ đất đặt mộ đẹp đẽ. Sau này Cao Bá Quát cũng từng có chùm 7 bài thơ cảm thán vẻ đẹp của lăng Thiên Thọ Hữu, có tên là Cung nghĩ Gia Thành điện thiên hoa thiếp tử thất thủ (恭擬嘉成殿天花帖子七首).

Năm Thiệu Trị thứ 5, tháng 9 ngày Canh Tuất (tức 16 tháng 11 năm 1846), xây nhà lăng trên núi Thuận Sơn. Các công trình như huyền cung, bảo thành, lăng tẩm, nhà cửa được sửa sang. Công việc làm xong, dâng tên hiệu : lăng lấy tên là lăng Thiên Thọ Hữu, điện gọi là điện Gia Thành, cửa gọi là cửa Minh Ý.

Năm Thiệu Trị thứ 6, tháng 12, ngày 7 (tức 23 tháng 1 năm 1847), giờ Dần, Hoàng đế Thiệu Trị cùng các quan đến bàn thờ ở cung Từ Thọ làm lễ tổ điện. Giờ Tỵ, linh giá đến bến sông Kinh thành, lên thuyền rồi làm lễ điện ban trưa do hoàng tử, hoàng thân trong ban trực làm lễ. Lễ xong, linh giá đi tiếp. Ngày hôm sau, linh giá đi qua lăng Cơ Thánh của Hưng tổ Hoàng đế. Ngày 9 (tức 25 tháng 1 năm 1847), làm lễ điện buổi sáng xong, rước linh giá lên bộ. Giờ Tý hạ huyệt. Cùng ngày, thần chủ của bà được rước về cung Từ Thọ. Khi rước linh giá đi từ cung Từ Thọ và lần đưa thần chủ trở về, nếu là đường bộ Hoàng đế Thiệu Trị đi võng theo sau, khi đi đường thủy thì đi thuyền ngự theo hộ vệ.

Năm Tự Đức thứ nhất, tháng 11 ngày Canh thìn (tức ngày 5 tháng 12 năm 1848), thần chủ của bà được rước về thờ ở Chánh án Thế Miếu, ở phía Tây thần chủ của Thế Tổ, thánh vị đặt tại gian giữa điện Phụng Tiên.

Hậu duệ

Thuận Thiên Cao hoàng hậu sinh được 4 người con trai:

Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽), tức Minh Mạng.

Nguyễn Phúc Đài (阮福旲; (5 tháng 10 năm 1795 - 14 tháng 11 năm 1849) tên khác là Nguyễn Phúc Duệ (阮福曳), tôn hiệu là Kiến An Cung Thuận Vương (建安恭慎王).

Hoàng tử tên Hiệu, mất sớm.

Nguyễn Phúc Chẩn (阮福昣; 30 tháng 4 năm 1803 - 26 tháng 10 năm 1824), tên khác là Nguyễn Phúc Khuê (阮福晆), tôn hiệu là Thiệu Hóa Cung Lương Quận Vương (紹化恭良郡王).

Trong văn hóa đại chúng

Hình ảnh công cộng

Tại quê hương Văn Xá (nay thuộc phường Hương Văn, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) có đường Thuận Thiên được đặt theo thụy hiệu của bà.

Phim ảnh

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thuận Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 順天高皇后, 4 tháng 1 năm 1769 - 6 tháng 11 năm 1846) tên thật là **Trần Thị Đang** (陳氏璫), là một phi tần của Nguyễn Thế Tổ Gia
Trong đại số tuyến tính, **ma trận lũy đẳng** là ma trận mà khi nhân với chính nó, sẽ cho ra chính nó. Có nghĩa là, ma trận A là lũy đẳng khi và chỉ
**Trận Bạch Đằng năm 1288** xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, là một trận đánh quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông trong lịch sử Việt Nam. Đây
**Trần Thị Thanh Hương** (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1971) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy,
**Trần Thị Hồng An** (sinh ngày 11 tháng 12 năm 1971) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối
**Trần Bạch Đằng** (tên khai sinh là **Trương Gia Triều**; 15 tháng 7 năm 1926 – 16 tháng 4 năm 2007) là một chính trị gia, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam.
**Trần Thị Lý** (30 tháng 12 năm 1933 – 20 tháng 11 năm 1992), tên khai sinh là **Trần Thị Nhâm**, là một nhà hoạt động cách mạng, nữ chiến sĩ Quân đội Nhân dân
**Trần Thị Vân** (sinh ngày 22 tháng 2 năm 1975) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại
**Trần Thị Nhị Hà** (sinh ngày 25 tháng 11 năm 1973) là nữ chính khách Việt Nam. Bà là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV từ
**Trần Thị Hồng Thanh** (sinh ngày 6 tháng 4 năm 1977) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn
**Trần Thị Thu Phước** (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1976, người Xơ Đăng) là nữ sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam. Bà là Đại tá, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Giám
**Trần Thị Kim Nhung** (sinh ngày 12 tháng 2 năm 1973) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp
**Trần Thị Huyền Trân** (sinh ngày 5 tháng 1 năm 1968) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc
**Trần Thị Phương Hoa** (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1975) là nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn
**Trần Thị Dung** (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1961) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn
**Trần Thị Quỳnh** (sinh năm 1986 tại Hải Phòng) là Hoa khôi Thể thao Việt Nam 2007. Vốn là một nữ vận động viên bóng chuyền (từng đạt Huy chương Đồng Bóng chuyền nữ trẻ
**Trần Thị Biền** (? – 1945) là một cựu Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phản bội. ## Cuộc đời Trần Thị Biền là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Quảng Trị.
**Trần Thị Diệu Thúy** (sinh ngày 8 tháng 3 năm 1977) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIII, XIV, XV (Đoàn Đại biểu
**Trần Thị Bé Nhân** là một nữ tướng Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Bà hiện giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ (Việt Nam). ##
**Huy Chân Công chúa** (輝真公主) hay **Trinh Thục phi** (貞淑妃) Trần Thị Ngọc Hiền (còn có tên khác là Ngọc Dung, Ngọc Huyên) (1377 - ?) là một vị Công chúa nhà Trần và là
**Trần Thì Kiến** (陳時見, 1260–1330?) người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, và được
Vào ngày 13 tháng 7 năm 2003, **Trần Thị Bích Câu** (hay còn gọi là Câu Bích Trần) đã bị sĩ quan cảnh sát San Jose bắn chết tại ngôi nhà của mình ở California,
**Trần Thị Hoa Ry** (sinh ngày 11 tháng 4 năm 1976) là một nữ chính trị gia người Việt Nam, dân tộc Khmer. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm
**Trần Thị Vĩnh Nghi** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1983) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021, thuộc
**Trần Thị Thu Uyên** (sinh ngày 8 tháng 12 năm 2000) là một hoa hậu, người mẫu người Việt Nam. Cô đăng quang ngôi vị Hoa hậu tại cuộc thi Hoa hậu Đại dương Việt
**Trần Thị Hiền** (sinh ngày 22 tháng 12 năm 1974) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, khóa XIV, thuộc đoàn đại biểu Hà Nam. ## Xuất thân Quê quán ở Xóm 4,
**Trận Thị Nại** là một trận chiến diễn ra vào tháng 2 năm 1283 giữa Chăm Pa và nhà Nguyên. Trận chiến diễn ra trên đầm Thị Nại, gần kinh đô Đồ Bàn của Chăm
**Trần Thị Trung Chiến** (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1946), Quê quán: Xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre; và giữ chức vụ chủ tịch Hội phòng chống HIV/AIDS bà cũng
**Trần Thị Phương Hoa** (sinh 1972) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12, thuộc đoàn đại biểu Nam Định, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa 12. ## Tiểu sử
**Trần Thị Minh Hòa** (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1956) là một giáo viên và chính trị gia người Việt Nam. Bà từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11 nhiệm kì
**Trần Thị Thúy Nga** (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá nữ người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Thái Nguyên T&T và
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Thị Thùy Dung** (sinh ngày 18 tháng 2 năm 1990 tại Đà Nẵng), là Hoa hậu Việt Nam 2008. Cô giành chiến thắng trong cuộc thi Hoa hậu quốc gia lần thứ 11 được
**Trần Thị Huệ** (chữ Hán: 陳氏惠; 1743 - 1791), còn gọi **Trần Chính hậu** 陳正后, là hoàng hậu nhà Tây Sơn, vợ cả của Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc. ## Tiểu sử Trần Thị
**Trần Thị Trường** (sinh năm 1950 tại Tuyên Quang) là một nữ nhà văn và họa sĩ người Việt Nam. Bà được xem là nữ nhà văn gây chú ý ngay từ tiểu thuyết đầu
**Trần Thị Trâm** (1860 – 1930), là một thành viên trong phong trào Cần Vương và phong trào Đông Du tại Việt Nam. Chính vì những công lao và sự hy sinh của bà, mà
**Trần Thị Lan** (? - 1802) là một nữ tướng dưới triều Tây Sơn, bà là tùy tướng của Bùi Thị Xuân, cùng các nữ tướng khác được gọi là Tây Sơn ngũ phụng thư.
**Trận Bạch Đăng** (, _Bạch Đăng chi chiến_) là trận phục kích và vây hãm núi Bạch Đăng của quân Hung Nô do Thiền vu Mặc Đốn chỉ huy, bao vây quân Hán do Hán
**Trận Bạch Đằng trên sông Hiếu** (cuối tháng 2 đến đầu tháng 3-1968) là trận đánh nằm trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh của Quân đội nhân dân Việt Nam, cắt đứt đường
**Trần Thị Băng Thanh** (sinh 1938) là một nhà nghiên cứu văn học người Việt Nam. Bà được mệnh danh là "Bà đồ nho" với rất nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, viết sách,
**Trần Thị Thanh Thúy** (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1997), còn được biết đến với biệt danh 4T, là vận động viên bóng chuyền nữ. Thanh Thuý là thành viên của Đội tuyển bóng
**Trần Thị Nhượng** (tức Sáu Ngài hay cô giáo Ngài) là người tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau đó trở thành bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Sa Đéc thời
**Trận Thị Nại năm 1801** là trận thủy chiến dữ dội nhất, trận thư hùng quyết định trong cuộc Chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn (1787-1802). Tại đây thủy quân Gia Định do chúa Nguyễn Ánh trực
**Trần Văn Đang** (1942-1965), quê quán ở xã Long Phước, huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long. Ông là liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Ông là chiến sĩ hoạt
**Trận Đồng Đăng** là trận chiến mở màn cho Chiến tranh biên giới phía Bắc giữa Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến sự diễn ra từ
**Trần Thị Quang Mẫn** (1926-2021), hay **Trần Quang Mẫn**, là một Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Bà nổi tiếng với nhiều giai thoại trong
Câu lạc bộ Muay One – Rạch Giá (Club Muay One RG) là địa chỉ tập luyện Muay Thái chuyên nghiệp hàng đầu tại Kiên Giang. Nằm tại số P6‑Căn 01 Trần Bạch Đằng, khu
**Trần Thị Diệu**, nghệ danh **Huyền Diệu** là một nghệ sĩ ưu tú tiêu biểu trong làng chèo Việt Nam. Hiện là phó trưởng Đoàn chèo 1 nhà hát Chèo Ninh Bình. Huyền Diệu là
**Trần Thị Nguyệt Thu** là phu nhân của nguyên Chủ tịch nước Việt Nam trong nhiệm kỳ chủ tịch nước của chồng bà là Nguyễn Xuân Phúc từ tháng 4 năm 2021 đến ngày 18
**Trần Thị Nhi Yến** (sinh ngày 9 tháng 7 năm 2005) là một vận động viên điền kinh người Việt Nam. Trần Thị Nhi Yến đang là nhà vô địch quốc gia các cự ly