✨Trận Tarakan (1945)

Trận Tarakan (1945)

Trận Tarakan là trận đánh mở đầu trong chiến dịch Borneo diễn ra vào năm 1945. Nó được bắt đầu với một cuộc đổ bộ trên biển thực hiện bởi lực lượng Úc vào ngày 1 tháng 5, mang mật danh Chiến dịch Oboe One. Trong khi trận đánh kết thúc với chiến thắng nghiên về phía Đồng Minh và kết quả được coi là xứng đáng với thiệt hại.

Bối cảnh

Tarakan là một hòn đảo nằm về phía bờ biển phía đông Borneo. Đảo này có diện tích 303 kilometer vuông (117 mi²), phần lớn được bao phủ bởi các đầm lầy hay đồi núi với rừng rậm dày đặc tại thời điểm diễn ra trận đánh. Tarakan tạo thành một phần của Đông Ấn thuộc Hà Lan (NEI) và một trung tâm sản xuất dầu quan trọng với hai khu vực khai thác dầu sản xuất 80.000 thùng dầu mỗi tháng vào năm 1941.

Nhật Bản chiếm đóng

Chiếm giữ những khu vực dầu mỏ trên đảo Tarakan là một trong những mục tiêu ban đầu của Nhật Bản trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Quân Nhật đã thực hiện đổ bộ lên bờ biển phía đông Tarakan vào ngày 11 tháng 1 năm 1942 và đánh bại một đồn nhỏ của Hà Lan trong vòng 2 ngày sau đó và tiêu diệt một nửa lực lượng ở đây. Mặc dù những khu vực dầu mỏ này đã bị phá hoại thành công khi trước khi lực lượng Hà Lan đầu hàng, người Nhật đã nhanh chóng khôi phục nơi này và đưa vào sản xuất với sản lượng 350.000 thùng dầu mỗi tháng vào đầu năm 1944.

Sau khi người Hà Lan đầu hàng, 5.000 cư dân Tarakan chịu sự sự chiếm đóng của Nhật Bản. Một số lượng lớn quân Nhật được bố phòng trên đảo đã khiến cho nguồn lương thực tại đây bị thiếu thốn và hậu quả là nhiều thường dân Tarakan bị chứng suy dinh dưỡng. Trong thời gian chiếm đóng, người Nhật đã mang khoảng 600 lao động đến Tarakan từ Java. Lực lượng Nhật cũng đã cưỡng bức khoảng 300 phụ nữ Java làm "nô lệ tình dục" trên đảo Tarakan sau khi dụ họ với lời đề nghị tạo cộng việc may vá và thư ký.

Giá trị của Tarakan đối với người Nhật tan biến nhanh chóng trước chiến dịch của lực lượng Đồng Minh trong khu vựca. Chiếc tàu chở dầu cuối cùng của Nhật rời khỏi Tarakan vào tháng 7 năm 1944, và các đợt không khích nặng nề của Đồng Minh trong cùng năm đã phá huỷ các cơ sở dự trữ và sản xuất dầu của hòn đảo. Các cuộc không kích cũng giết chết vài trăm thường dân Indonesia. Trong một diễn biến cho thấy sự suy giảm độ quan trọng của địa điểm này, quân đồn trú của Nhật trên Tarakan đã được giảm xuống vào đầu năm 1945 khi một trong hai tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn Bộ binh Độc lập 454) được rút về Balikpapan. Tiểu đoàn này sau đó đã bị tiêu diệt bởi Sư đoàn số 7 Australia vào tháng 7 trong trận Balikpapan.

Kế hoạch của quân Đồng Minh

Mục tiêu chủ yếu của Đồng Minh khi tấn công Tarakan (mật danh "Oboe One") là chiếm lấy và nâng cấp sân bay Juwata trên đảo để có thể làm bàn đạp thực hiện các cuộc đổ bộ tiếp theo tại Brunei, Labuan và Balikpapan. Mục tiêu thứ hai cho chiến dịch là lấy lại khu vực dầu mỏ trên Tarakan và đưa vào sản xuất nhiên liệu cho lực lượng Đồng Minh tại chiến trường này. nhỏ|trái|Tình báo Đồng Minh đánh giá lực lượng phòng thủ Nhật Bản vào tháng 4 năm 1945 và mật danh các vị trí ở nam Tarakan

Bộ chỉ huy Sư đoàn 9 và Lữ đoàn 26 chịu trách nhiệm về việc lên kế hoạch đổ bộ lên Tarakan. Công việc được bắt đầu vào đầu tháng 3 khi cả hai đơn vị đã tập kết tại Morotai, và các kế hoạch cuối cùng được hoàn thành vào ngày 24 tháng 4. Việc lên kế hoạch bị chậm trễ do điều kiện làm việc thiếu thốn và các khó khăn trong liện lạc với Tổng hành dinh của Tướng MacArthur đặt tại Leyte. nhỏ|alt=Three men wearing military uniforms walking towards the camera. A tent and palm trees are in the background|Chuẩn Đô Đốc Forrest Royal, Trung tướng Sir Leslie Morshead và Thiếu tướng Không quân William Bostock đang thảo luận về kế hoạch đổ bộ lên Tarakan ngày 12 tháng 4 năm 1945

The Allied plans anticipated that Tarakan would be secured quickly. It was expected that the operation would involve a short fight for the airfield followed by a 'consolidation' phase during which the island's airfield and port would be developed to support Allied operations. The planners did not foresee significant fighting in Tarakan's interior, and no plans were developed for operations in areas other than the landing beaches, Tarakan Town and airfield. The planners did, however, correctly anticipate that the Japanese would make their main stand in an area other than the invasion beach and would not be capable of mounting a large counter attack.

The Allied plans also expected that Tarakan would be transformed into a major base within days of the landing. Under the pre-invasion planning it was intended that a wing of fighter aircraft would be based at Tarakan six days after the landing and this force would be expanded to include an attack wing nine days later and staging facilities for a further four squadrons of aircraft within 21 days of the landing. It was also expected that the 26th Brigade Group and its supporting beach group would be ready to leave Tarakan by 21 May and the RAAF units could be redeployed in mid-June after providing support for the landing at Balikpapan.

The Allied planners possessed detailed intelligence on Tarakan and its defenders. This intelligence had been gathered from a variety of sources which included signals intelligence, photographic reconnaissance flights and Dutch colonial officials. Tarakan was the Australian Services Reconnaissance Department's (SRD) first priority from November 1944. However, the difficulty of infiltrating operatives into such a small island meant that the organisation could only provide limited aid to the planners.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Tarakan** là trận đánh mở đầu trong chiến dịch Borneo diễn ra vào năm 1945. Nó được bắt đầu với một cuộc đổ bộ trên biển thực hiện bởi lực lượng Úc vào ngày
**Chiến dịch Borneo** năm 1945 là chiến dịch lớn cuối cùng của Đồng Minh ở mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong một loạt các cuộc đổ
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
**Trận Banjarmasin** (31 tháng 1 – 10 tháng 2 năm 1942) diễn ra như là một phần của cuộc tấn công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan. Người Nhật đã tiến
**Sân bay Juwata** là một sân bay ở Tarakan, Đông Kalimantan, Indonesia. Sân bay này nằm trên đảo Tarakan ngoài khơi Borneo. Đây là mục tiêu chính của Đồng minh trong trận Tarakan (1945). ##
**Trận Manado** là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan. Trận đánh diễn ra tại Manado (cũng được đánh vần Menado) trên bán đảo Minahasa
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
nhỏ|phải|Các tàu khu trục _Shigure_ và [[Samidare (tàu khu trục Nhật)|_Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**USS _Drayton_ (DD-366)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Bonefish_ (SS-223)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
**USS _Taylor_ (DD-468/DDE-468)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Smith_ (DD–378)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Robinson_ (DD-562)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Holt_ (DE-706)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Caldwell_ (DD-605)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**Bắc Borneo** () là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc
**USS _William B. Preston_ (DD-344/AVP-20/AVD-7)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Philip_ (DD/DDE-498)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**Chiến dịch Đông Ấn Hà Lan** là một chuỗi các hoạt động quân sự của Đế quốc Nhật Bản từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942 nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà
**USS _Louisville_ (CA-28)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ ba trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt
**USS _Stewart_ (DD-224)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Formoe_ (DE-509)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Paul Jones_ (DD-230/AG–120)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
**USS _Dufilho_ (DE-423)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**_Ryūhō_** (tiếng Nhật: 龍鳳, Long Phụng) là một tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vốn khởi sự hoạt động như là tàu tiếp liệu tàu ngầm _Taigei_, và được rút khỏi
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
**_Ōi_** (tiếng Nhật: 大井) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**USS _Fletcher_ (DD/DDE-445)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Jenkins_ (DD-447/DDE-447)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Nicholas_ (DD-449/DDE-449)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Barker_ (DD-213)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMAS _Hobart_ (D63)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Leander_ cải tiến. Nguyên được chế tạo và đưa vào hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc dưới tên gọi **HMS
**USS _Cofer_ (DE-208/APD-62)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo thủy thủ John Joseph
**USS _Charles E. Brannon_ (DE-446)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Rudderow_ (DE-224)** là một tàu hộ tống khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật