✨Trận Hastings

Trận Hastings

Trận Hastings là một trận đánh diễn ra vào ngày 14 tháng 10 năm 1066 giữa lực lượng Norman /nɔːmən/ dưới sự lãnh đạo của Công tước William II xứ Normandy và quân đội Anglo-Saxon do vua Harold II chỉ huy. Đây là thắng lợi quyết định trong cuộc chinh phục nước Anh của người Norman. Sau trận chiến này, một hệ thống quyền lực Anh-Norman mới tại Anh đã được thiết lập. Trận chiến đã nổ ra tại đồi Senlac, một địa điểm cách thị trấn Hastings khoảng 6 dặm về phía tây bắc, gần Đông Sussex ngày nay.

Vua Harold II đã tử trận tại Hastings - tương truyền rằng ông đã bị một mũi tên bắn trúng vào mắt. Mặc dù sau đó người Anh vẫn tiếp tục kháng cự nhưng trận này được xem là có ý nghĩa quyết định để William kiểm soát nước Anh và trở thành vị vua Norman đầu tiên dưới tên gọi William I của Anh. Cho đến nay, trận Hastings vẫn được xem là trận xâm lược cuối cùng vào nước Anh.

Các sự kiện trước và trong trận chiến được miêu tả trên tấm thảm Bayeux nổi tiếng. Tu viện Battle ở Đông Sussex sau đó được xây dựng trên địa điểm xảy ra trận chiến.

Bối cảnh

Vua William I Kẻ chinh phục Năm 1035, Công tước xứ Normandy là Robert qua đời. Con ông là William mới lên 8 tuổi đã kế thừa tước vị của cha mình. Lập tức các quý tộc Norman nổi dậy chống lại vị Công tước trẻ tuổi này. Lúc này William nhận được sự giúp đỡ của vua Pháp và Giáo hội nên vẫn bảo toàn được vị thế. Về sau này ông đã xây dựng được một đội quân hùng mạnh và chiến thắng những kẻ nổi loạn vào năm 1047. Sau khi tạo dựng được thế lực cho mình, trong nhiều năm sau đó, William đã tỏ rõ những mối quan tâm đối với vùng đất ở bên kia bờ biển là nước Anh, vốn có mối quan hệ mật thiết với xứ Normandy.

Vua Anh là Người xưng tội Edward đã từng có thời gian dài sống ở Normandy trước khi lên ngôi vua Anh. Một số tài liệu nói rằng Người xưng tội Edward đã có lời hứa truyền ngôi cho người em họ của ông là Công tước William xứ Normandy, nhưng khi trên giường bệnh thì ông lại quyết định truyền ngôi cho Harold Godwinson, một quý tộc thuộc gia đình thế lực nhất ở Anh. Vua Edward có một người cháu trai đủ điều kiện kế vị, nhưng bị cho là quá nhỏ tuổi để trị vì một vương quốc. Ngay sau khi Người xưng tội Edward qua đời vào tháng 1 năm 1066, Harold Godwinson tuyên bố lên ngôi vua Anh. Ông nhận được sự ủng hộ của Witenagemot, một hội đồng các quý tộc Anglo-Saxon.

Công tước William xứ Normandy đã thiết lập rõ chính sách của mình với nước Anh trong hơn 15 năm qua (chờ đợi cơ hội để lên ngôi). Ông xem việc lên ngôi vua của Harold như một lời tuyên bố chiến tranh. William liền lên kế hoạch xâm lược nước Anh và cướp ngôi. Quân đội Norman không đủ mạnh để đơn độc tiến hành cuộc chiến, do đó ông đã mời các quý tộc ở khắp nơi tới Caen thuộc Normandy để nhờ giúp sức (có người ở xa tận miền Nam Italia). William hứa sẽ ban thưởng đất đai và chức tước cho những người đi theo mình và tuyên bố rằng cuộc chinh phạt đã được ủng hộ bởi Giáo hoàng.

William tập hợp một hạm đội với số lượng được cho là khoảng 696 chiếc tàu, nếu con số này chính xác thì quân đội của ông gồm hơn 20.000 người. Lực lượng này đã chờ đợi tại cảng qua mùa hè, có thể là vì thời tiết xấu và cũng rất có thể là do sợ hãi một trận đụng độ trên biển với hạm đội lớn của Anh. Họ cuối cùng cũng khởi hành đi Anh sau khi các nguồn cung cấp hậu cần đã hết buộc Harold phải giải tán hạm đội. Trong lúc này thì nhiều tàu Anh đã đắm do bão. Ngày 28 tháng 9 năm 1066, William đã đổ bộ xuống một địa điểm nằm ngoài dự định tại Pevensey mà không gặp sự kháng cự nào.

Vua Anh Harold II đã sẵn sàng chờ đợi một cuộc xâm lược của người Norman. Thế nhưng trước khi giáp mặt với William, ông đã phải đưa đội quân của mình về phía bắc để đánh trả quân xâm lược Viking tới từ Na Uy dưới sự chỉ huy của vua Harald Hardråda (ông này cũng tuyên bố mình mới là người kế vị hợp pháp của ngai vàng nước Anh) và Tostig Godwinson (em trai của Harold). Harold đánh tan những kẻ xâm lược tại trận Stamford Bridge, gần vùng York. Sau khi nghe báo tin rằng lực lượng của William đã đổ bộ vào đất Anh, ông vội vã hành quân về phía nam. Người em của ông, Bá tước Gyrth, đề nghị rằng nên hành quân chậm lại để có thể tập hợp thêm nhiều người khác, nhưng Harold quyết tâm chứng tỏ cho người dân thấy rằng ông có thể bảo vệ vương quốc mới của mình chống lại bất kỳ kẻ xâm lược nào. Ông ta rời London vào sáng ngày 12 tháng 10, tập hợp bất cứ lực lượng nào có thể trên đường tiến quân. Sau khi cắm trại ở Long Bennington, ông đến Senlac vào đêm ngày 13 tháng 10.

Harold triển khai lực lượng của ông, chắn ngang con đường từ Hastings đến London, trên đồi Senlac, khoảng 6 dặm (10 km] về phía tây bắc của Hastings. Phía sau ông là rừng Anderida rộng lớn, và ở phía trước mặt ông là một sườn đất dốc thoai thoải, khi xuống tới đáy thì nó dốc ngược lên ở phía đối diện, tạo thành sườn đồi Telham.

Tương quan lực lượng

nhỏ|Quân Anh với cái búa chiến Đan Mạch

Quân Anh

Quân đội Anh đã phải chiến đấu hai trận đánh lớn khác nhau, ở ải Fulford và Stamford Bridge, 3 tuần trước trận trận Hastings. Trận thứ hai đã tiêu diệt hoàn toàn quân đội của vua Harald Hardråda, nhưng cũng đã làm hao mòn sinh lực quân Anh.

Quân Anh gồm phần lớn là bộ binh. Có thể một số, hoặc tất cả trong số họ đã cưỡi ngựa tới chiến trường, nhưng khi tới nơi thì họ xuống ngựa để chiến đấu. Chủ lực của họ là những người lính chuyên nghiệp phục vụ toàn thời gian, được gọi là bồi thần (Housecarls). Những người này tuyệt đối trung thành với nhà vua. Chiến giáp của họ bao gồm một chiếc mũ sắt hình nón, một chiếc áo giáp bằng lưới sắt và một chiếc lá chắn có hình chiếc diều. Vũ khí chính của họ là búa trận Đan Mạch cầm hai tay, mặc dù mỗi người lính cũng có thể mang theo một thanh kiếm để dùng trong lúc nguy cấp.

Đại bộ phận quân đội là quân địa phương (fyrd), bao gồm binh sĩ bán thời gian của Anh được cung cấp từ giới quý tộc chủ đất nhỏ. Những người này là tầng lớp quý tộc nắm giữ đất đai và được yêu cầu phải phục vụ với áo giáp và vũ khí của mình trong một số ngày nhất định mỗi năm. Hệ thống phòng thủ đáng chú ý nhất của người Anh là bức tường khiên chắn, trong đó tất cả mọi người ở phía trước ghì chặt lá chắn của họ lại với nhau. Trong giai đoạn đầu của trận đánh, các bức tường chắn tỏ ra rất hiệu quả trong việc bảo vệ cho binh sĩ Anglo-Saxon chống lại cung tên của quân Norman. Toàn bộ quân đội Anh đã chiếm các vị trí theo đường chóp, nếu thương vong làm giảm số lượng binh sĩ ở hàng phía trước thì hai bên cánh sẽ di chuyển về phía trước để lấp đầy khoảng trống.

Diễn biến trận đánh

nhỏ|phải|Kỵ binh Norman xung phong phải|nhỏ|William đích thân dẫn đầu kỵ binh xung phong nhỏ|Cảnh miêu tả một tên lính la toáng lên: Đức Vua Harold chết rồi! (Harold trúng ngay một tên vào mắt) Về bố trí binh lực đôi bên, quân Anh chỉ bày một đội hình bức tường khiên chắn, trong khi đó quân Norman gồm 3 hàng. Hàng đầu là các cung thủ, hàng thứ hai là lực lượng bộ binh, hàng thứ ba là lực lượng kỵ binh. Mở màn cho trận chiến, một chiến binh bên phía William tên là Taillefer tiến lên trước, hát vang Bài ca Roland, giết được một binh sĩ Saxon lao lên thách thức, trước khi bị quân Anh giết chết.

William dựa vào chiến thuật cơ bản với việc xếp các cung thủ ở phía trước và làm rối loạn đội hình đối phương bằng các trận mưa tên, sau đó tung bộ binh ra để cận chiến và kết liễu trận đánh là đòn tấn công bằng kỵ binh xung phong để phá vỡ đội hình của quân Anh. Tuy nhiên, chiến thuật của ông đã không hiệu quả như dự tính. Quân của William tấn công vào quân Anh khi họ đã sẵn sàng và dàn trận. Các cung thủ Norman bắn rất nhiều loạt tên cầu vồng nhưng phần lớn trong số đó đã vấp phải bức tường khiên và chẳng gây thương vong bao nhiêu. Cho rằng người Anh đã bị thiệt hại nặng, William ra lệnh cho bộ binh của mình tấn công. Khi quân Norman tấn công lên đồi, người Anh đã ném xuống bất cứ thứ gì có thể như đá, lao và chùy. Những cú ném này có lẽ đã gây thương vong nặng nề cho bộ binh của Norman, làm cho hàng ngũ bị rối loạn.

Khi bộ binh Norman xáp lại với đội hình quân Anh, một trận kịch chiến dữ dội đã xảy ra. William đoán rằng người Anh đã nao núng do trận mưa tên, nhưng ông ta nào biết rằng các mũi tên chỉ trúng vào các tấm khiên và gây ra những thiệt hại rất nhỏ. Gần như tất cả các binh sĩ Anh vẫn đứng vững, bức tường lá chắn của họ về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn. Kết quả là William đã phải ra lệnh cho kỵ binh của mình tấn công sớm hơn kế hoạch. Đối mặt với một bức tường của rìu, giáo và kiếm, nhiều con ngựa của các kỵ sĩ đã bị hoảng sợ lồng lên, mặc dù đã được đào tạo và luyện tập một cách khá cẩn thận. Sau một giờ giao tranh, phân đội người Brittany bên cánh trái của William đã chùn bước, vỡ đội hình hoàn toàn và bỏ chạy xuống chân đồi.

Bị thương vong nặng nề và nhận ra họ sẽ nhanh chóng bị bọc sườn, các lực lượng từ Normandy và Flanders rút lui cùng với quân Brittany. Do quá hưng phấn và đắc chí, nhiều người Anh đã phá vỡ hàng ngũ để lao theo truy kích đối phương. Bản thân Harold không lao lên, nhưng ông không ngăn được một bộ phận quân đội của mình làm chuyện đó, bao gồm hàng trăm lính nghĩa vụ và cả Leofwyne và Gyrthe, những người anh em của Harold. Trong trận hỗn chiến sau đó, ngựa của William đã bị giết chết và ông đã bị ngã rầm xuống đất. Lúc đó, rất nhiều binh sĩ của William tưởng ông đã chết và bắt đầu một cuộc tháo chạy còn lớn hơn. Chỉ sau khi ông đứng lên và ném chiếc mũ trụ khỏi đầu thì mọi người mới biết là William còn sống và qua đó, ông mới có thể tập hợp lại quân đội đang chạy trốn của mình.

Những binh sĩ hăng máu lao lên của quân Anh đã trở thành mục tiêu dễ dàng cho quân Norman trong một chiến trường mở. William và một nhóm các hiệp sĩ của ông đã thành công trong việc nhanh chóng phản công vào quân Anh đang truy đuổi (bây giờ họ không còn được bảo vệ bởi các bức tường khiên chắn) và tiêu diệt một số lượng lớn các lính nghĩa vụ. Nhiều người đã không nhận ra rằng người Norman đang phản công cho đến khi sự thể đã quá muộn, nhưng một số khác thì chạy ngược lên ngọn đồi kịp. Những người anh em của Harold không may mắn như vậy, cái chết của họ làm người Anh không còn một người chỉ huy thay thế nào sau cái chết của Harold. Hai bên tập hợp lại đội hình và sau đó là một thời gian tạm lắng xuống trên trận chiến. Cuộc chiến lúc này đã chuyển sang thế có lợi cho William kể từ khi người Anh mất đi sự che chở của một phần lớn bức tường chắn. Nếu không có một sự gắn kết của một đội hình có kỷ luật cao thì các cá nhân và các nhóm nhỏ quân Anh trở thành các mục tiêu dễ dàng. William tung quân đội của mình và tấn công mạnh vào đội hình của người Anh một lần nữa. Lần này thì rất nhiều lính chuyên nghiệp Anh (bồi thần) đã thiệt mạng.

Với một số lượng lớn các binh sĩ quân dịch người Anh lúc này đang chiếm chỗ ở hàng phía trước (do các lính chuyên nghiệp đã tử trận quá nhiều), bức tường lá chắn vốn được duy trì một cách kỷ luật bởi những lính bồi thần lúc này đã bắt đầu rạn nứt và tạo ra một cơ hội hết sức thuận lợi cho William. Vào đầu trận chiến, những trận mưa tên bắn vào quân Anh từ cung thủ của William đã tỏ ra không hiệu quả trước các tấm khiên chắn của quân Anh. Thế nhưng vào lúc này, mặc dù rất nhiều binh sĩ Anh ở hàng phía trước vẫn có lá chắn, William đã ra lệnh cho các cung thủ của mình bắn cầu vồng qua bức tường lá chắn để các mũi tên bắn trúng vào các nhóm quân Anh đứng đằng sau. Các cung thủ đã lập tức thi hành và gặt hái được thành công to lớn.

Tương truyền, tại thời điểm này vua Harold II bị trúng một mũi tên vào mắt. Nhiều binh sĩ Anh lúc này cảm thấy cực kỳ mệt mỏi. Quân đội của William đã tấn công một lần nữa và họ đã cố gắng để tạo những khe hở trong các bức tường lá chắn. Họ đã khai thác các khoảng trống này và quân đội Anh bắt đầu tan rã. William và một số hiệp sĩ của ông ta đã vượt qua bức tường lá chắn và đâm chết hẳn nhà vua Anh. Chứng kiến cảnh vua của họ cùng với rất nhiều nhà quý tộc đã tử trận, hàng trăm lính nghĩa vụ bỏ chạy khỏi bãi chiến trường tạo nên cảnh bại binh như núi lở. Riêng các bồi thần vẫn giữ lời thề của họ về sự trung thành với nhà vua và đã chiến đấu một cách dũng cảm cho đến khi tất cả đều bị giết. Do bị vỡ đội hình bức tường lá chắn nên khi quân Norman tấn công, quân Anh bị thua. Trong lúc một số lính nghĩa vụ và hậu quân bỏ chạy thì đội lính tinh nhuệ cùng ở lại tử chiến với vua của họ. Thắng trận, William và quân đội của mình nghỉ ngơi trong hai tuần ở gần Hastings, chờ các lãnh chúa người Anh tự tới đầu hàng ông ta. Và rồi, sau khi ông nhận ra rằng hy vọng của mình về sự tự quy hàng của người Anh tại thời điểm đó là vô ích (vì những người này không thật lòng), ông bắt đầu tiến quân về London. Quân đội của ông bị suy giảm nghiêm trọng trong khoảng tháng 11 bởi vì những chứng bệnh kiết lỵ và bản thân William cũng bị bệnh nặng. Tuy nhiên, ông được tăng cường thêm một đội quân nữa mới vượt qua eo biển Anh. Dù sao đi nữa, sau khi Harold chiến bại, chẳng có lực lượng nào ở Anh đủ sức ngăn ông tiến quân.

Trong khi đó, tại London, người Anh vội vàng tập hợp tàn quân và chọn Edgar Atheling, một người vừa trẻ và vừa thiếu kinh nghiệm, lên ngai vàng. Họ chọn ông bởi vì một vị vua yếu kém vẫn tốt hơn so với không có vua, và khi mà không còn một người nào trong gia đình Godwinson thì ông ta là người duy nhất có thể lên ngai vàng. Không rõ là Edgar có được gia miện chính thức hay chưa, có thể là ông ta cũng được gia miện nhanh chóng như Harold, nhưng chưa có chứng cứ nào ghi rõ điều này. Không lâu sau cuộc bầu chọn của Edgar, Edwin và Morcar, các bá tước ở phía bắc, rời London và mang quân về lãnh địa (bá quốc) của họ. Các sử gia cho rằng họ nhìn nhận cuộc chiến với William chỉ như là một cuộc tranh chấp giữa ông với gia đình Godwinson, và hy vọng sẽ có hòa bình với Công tước. Các thành viên khác của Hoàng gia Anh như Margaret và Cristina, các chị em của Edgar, cũng vội vàng trở về đất phong của họ là Chester để có sự an toàn.

William tiến qua vùng Kent, tàn phá Romney, đồng thời tiếp nhận sự đầu hàng của Dover và lâu đài quan trọng của nó. Tại Dover, ông tạm dừng một tuần để tiếp nhận sự quy hàng của Canterbury vào khoảng ngày 29. Ông gửi sứ giả đến Winchester và họ đã nhận được sự đầu hàng của thành phố này từ hoàng hậu góa bụa Eadgyth. Từ Canterbury, William tiến tới Southwark. Sau khi bị cản trở trong một nỗ lực để vượt qua cầu London, ông đã phá hủy chỗ này. Ông tiếp cận thành phố theo một tuyến đường vòng quanh qua sông Thames ở Wallingford và tàn phá những vùng đất mà mình đi qua. Lực lượng Norman tiến về phía London từ phía tây bắc cuối cùng đã đến được Berkhampstead vào cuối tháng 11 năm 1066. và là một trong hai hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại.

Paul K. Davis viết: "Chiến thắng của William đã đưa một nhà thống trị nước ngoài lên ngai vàng nước Anh, qua đó mang một xã hội kiểu châu Âu thay vì là kiểu Scandinavia đến cho hòn đảo tách biệt này" trong "cuộc xâm lược thành công cuối cùng vào nước Anh". Sử gia Edward Creasy xếp trận Hastings vào trong danh sách 15 trận chiến có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử (tính từ trận Marathon tới trận Waterloo).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Hastings** là một trận đánh diễn ra vào ngày 14 tháng 10 năm 1066 giữa lực lượng Norman /nɔːmən/ dưới sự lãnh đạo của Công tước William II xứ Normandy và quân đội Anglo-Saxon
**Trận Stamford Bridge** diễn ra tại một ngôi làng ở Stamford Bridge, East Riding of Yorkshire, Anh vào ngày 25 tháng 9 năm 1066, giữa một đội quân Anglo-Saxon dưới thời vua Harold Godwinson và
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Chiến dịch Hastings** (hay còn biết đến là **Chiến dịch Lam Sơn 289** đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa) là một chiến dịch của Hoa Kỳ tiến hành trong Chiến tranh Việt Nam
**Trận chiến Túi Falaise** (diễn ra từ ngày 12 tháng 8 đến 21 tháng 8 năm 1944) là trận đánh quyết định của toàn bộ Trận Normandy tại mặt trận phía Tây Chiến tranh thế
**USS _Burden R. Hastings_ (DE-19)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**Warren Hastings** FRS, PC (06/12/1732 - 22/08/1818), là một chính khách người Anh, Thống đốc đầu tiên của Pháo đài William (thuộc địa Bengal), người đứng đầu Hội đồng tối cao Bengal (Supreme Council of
**Flora Elizabeth Rawdon-Hastings** (11 tháng 2 năm 1806 – 5 tháng 7 năm 1839) là một nữ quý tộc người Anh và là Thị tùng cho mẹ của Victoria của Anh là Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld.
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Hastings** là một thị trấn thuộc quận Cambria, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thị trấn này là 1278 người.
Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu _Vua của Anglo-Saxons_ và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Fatehpur Sikri** là một thị trấn nằm tại huyện Agra, thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Thành phố cũ trước đây được thành lập bởi Hoàng đế Akbar như là thủ đô của đế quốc
Combo Hiểm Họa Ở Nhà Kết và Thung Lũng Bất Hạnh Hiểm Họa Ở Nhà Kết Poirot và người bạn trung thành Hastings tình cờ phát hiện những âm mưu đang diễn ra tại một
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
phải|thumb|Giả vờ rút lui. **Giả vờ rút lui** là một chiến thuật quân sự, theo đó một lực lượng quân sự giả vờ rút lui sau một trận giao chiến để thu hút kẻ thù
**_Empire Earth_** viết tắt **_EE_** là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực do hãng Stainless Steel Studios phát triển và Sierra Entertainment phát hành vào ngày 23 tháng
**Harold Godwinson** (hoặc còn gọi là **Harold II**) (tiếng Anh cổ: Harold Gōdwines sunu; 1022 - 14/10 /1066) là vị vua Anglo-Saxon cuối cùng của nước Anh. Harold trị vì từ 6 tháng 1 năm
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
**Người Viking** là tên gọi dùng để chỉ những nhà thám hiểm, thương nhân, chiến binh, hải tặc đến từ bán đảo Scandinavia (lãnh thổ các nước Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, từ cuối
**_Age of Empires II: The Conquerors_**, đôi khi được viết tắt là _AoC_ hay _AOK: TC_ (chữ "C" chỉ phiên bản 1.0c - phiên bản chuẩn hiện nay hoặc "Conquerors" - chinh phục) là bản
**Wales** hay **Xứ Wales** (phát âm tiếng Anh: ; hay ) là một quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và nằm trên đảo Anh. Wales có biên giới với Anh
phải|thumb|Quân G (xanh lục) đánh nghi binh quân C (màu cam) tại điểm đóng C1. **Nghi binh** là hoạt động lừa dối trong quân sự, gây lầm lẫn về địa điểm tấn công, dẫn đến
nhỏ|_[[Ōryoku Maru_, một trong những tàu địa ngục bị không quân Mỹ tấn công trên vịnh Manila]] **Tàu địa ngục** (, ) là từ chỉ tàu thủy và tàu chiến được Nhật Bản dùng để
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Rút lui** là hoạt động quân sự, mô tả hành động đưa quân đội ra khỏi vùng chiến sự hay vùng chiếm đóng. Rút lui dựa trên nền tảng cân nhắc khả năng quân sự
Ngày **14 tháng 10** là ngày thứ 287 (288 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 78 ngày trong năm. ## Sự kiện *982 – Da Luật Long Tự đăng cơ hoàng đế triều Liêu
**William I của Anh** (khoảng 1028 – 9 tháng 9, 1087) là Công tước xứ Normandy từ năm 1035 đến 1087 và là vua nước Anh từ năm 1066 đến khi qua đời. Với tư
nhỏ|phải|Diễn cảnh một gã người Pháp kiểu định kiến **Định kiến về người Pháp** (_Stereotypes of French people_) bao gồm các đặc điểm thực tế hoặc tưởng tượng về người Pháp được sử dụng bởi
Đây là danh sách các thành phố và thị xã Anh. Theo truyền thống, tại Anh, Wales và Bắc Ireland, một đô thị là một khu định cư nhận được một hiến chương thành lập,
Năm 1066 trong lịch Julius. ## Sự kiện * William Chinh phạt thắng trận Hastings ## Sinh ## Mất * Harold Godwinson
nhỏ|Tòa Hoàng gia, biểu tượng cho Hệ thống pháp luật Anh quốc **Pháp luật Anh** là hệ thống pháp luật được áp dụng cho toàn xứ Anh và xứ Wales được xây dựng cơ sở
**Richard William Guy** (4 tháng 8 năm 1877 – 1938) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí outside right cho Bradford City và Leeds City ở Football League. ##
thumb|Lễ dâng tặng cho Vua [[Henry VI của Anh và Vương hậu Marguerite xứ Anjou.]] Dưới đây là danh sách các hôn phối của Quốc vương và Nữ vương cai trị Vương quốc Anh từ
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
**_Thám tử rời sân khấu_** (tiếng Anh: _Curtain: Poirot's Last Case_ hoặc _Curtain_) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh
**She’s the Man** (tạm dịch: _Cô ấy là đàn ông_) là một bộ phim hài Mỹ được sản xuất năm 2006 dựa trên vở kịch _Twelfth Night_ của William Shakespeare mặc dù nội dung câu
**Elizabeth Woodville** (khoảng 1437 - 8 tháng 6, 1492), là Vương hậu của Vương quốc Anh, vợ của Edward IV thuộc nhà York. Bà ở cương vị Vương hậu nước Anh từ năm 1464 cho
**Chiến tranh Hoa Hồng** là một loạt các cuộc nội chiến tranh giành vương vị nước Anh giữa những người ủng hộ hai dòng họ Lancaster và York. Cuộc chiến diễn ra trong các giai
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ nhất** (tiếng Anh: _First Anglo-Maratha War_; tiếng Marathi: _पहिले इंग्रज-मराठा युद्ध_; tiếng Hindi: _पहला आंग्ल-मराठा युद्ध_) (1775–1782) là cuộc chiến đầu tiên trong ba lần Chiến tranh Anh-Maratha, diễn ra
**Sharia** (; ), là luật tôn giáo hình thành ra một phần của truyền thống Hồi giáo. Nó có nguồn gốc từ các giới luật tôn giáo của Hồi giáo, đặc biệt là Kinh Qur'an
**David Ionovich Bronstein** (Дави́д Ио́нович Бронште́йн; 19 tháng 2 năm 1924 – 5 tháng 12 năm 2006) là một Đại kiện tướng cờ vua người Liên Xô, kỳ thủ suýt giành danh hiệu Vô địch
: _Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)_ **John Crawfurd** FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà
**Cúp FA 2012–13** là mùa bóng thứ 123 của giải bóng đá lâu đời nhất thế giới, FA Cup. Nhà vô địch là Wigan, thế nhưng họ đã xuống hạng sau trận thua 4-1 trước
**_Five Nights at Freddy's_** (tạm dịch phiên âm tiếng Việt: **_Năm đêm ở nhà hàng Freddy's_**, và thường được viết tắt là **_FNaF_**) là một loạt thương hiệu truyền thông của Hoa Kỳ được sản
**Kamala Devi Harris** (, đọc như "Cam-ma-la Đê-vi He-rítx"; sinh ngày 20 tháng 10 năm 1964) là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, cựu phó tổng thống thứ 49 của Hoa Kỳ.
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**USS _Princeton_ (CV/CVA/CVS-37, LPH-5)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong hoặc ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là