✨Tour de France
Tour de France (tiếng Pháp) – còn gọi là Grande Boucle hay đơn giản là Le Tour, thường được dịch sang tiếng Việt là Vòng quanh nước Pháp hay Vòng đua nước Pháp – là một trong những giải đua xe đạp nổi tiếng và lâu đời nhất thế giới. Được tổ chức hàng năm từ 1903 (ngoại trừ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai), giải đua sẽ được diễn ra trong vòng 23 ngày của tháng 7, vận động viên xe đạp sẽ vượt qua 21 chặng đua xuyên nước Pháp (đôi lúc qua các quốc gia lân cận) với nhiều kiểu địa hình khác nhau với tổng lộ trình là 3.383 km. Ở chặng đua cuối cùng, các tay đua sẽ về đích tại đại lộ Champs-Élysées.
Từ năm 1984 cuộc đua tương tự dành cho nữ là Tour de France nữ (Grande Boucle Féminie Internationale) được tổ chức với chặng đua ngắn hơn.
Đường đua
Tour de France 2004 trên [[đại lộ Champs-Elysées]] Tour de France thường được xem như là cuộc đua xe đạp khó khăn nhất thế giới mặc dù thật ra địa hình đường đua không đòi hỏi cao hơn hai cuộc đua xe đạp đường dài khác: Giro d’Italia (Vòng đua nước Ý) và Vuelta a España (Vòng đua Tây Ban Nha). Chính các tay đua là tác nhân khiến cuộc đua trở nên khốc liệt hơn: ở giải đấu này người ta đua nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và tính cạnh tranh nhiều hơn tất cả các cuộc đua xe đạp khác.
Từ năm 1967, cuộc đua bắt đầu bằng phần gọi là prologue (khởi đầu): phần đua cá nhân tính giờ (khoảng 5 đến 10 km). Trong 20 chặng đua tiếp theo (sau mỗi chặng thường có 1 đến 2 ngày nghỉ), các tay đua luân phiên chạy nhiều vòng qua các thành phố thuộc nước Pháp theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược lại. Sau bê bối về chất kích thích (doping) trong năm 1998, tổng chiều dài được giảm còn khoảng 3.500 km. Đường đua và các địa điểm cho từng chặng thay đổi hằng năm, chỉ có đại lộ Champs Élysées ở Paris, địa điểm kết thúc Tour de France từ năm 1975 là không thay đổi. Một số đèo qua núi cao cũng được đưa vào đường đua hầu như mỗi năm.
Các ngày đầu tiên của Tour de France hầu như lúc nào cũng mang dấu ấn của các chặng đường bằng phẳng ở miền bắc nước Pháp, thích hợp cho các cuộc so tài ở tốc độ cao trước khi kết quả chung cuộc được quyết định trên các chặng ở vùng núi cao Pyrenees và Alpes. Ngoài ra trong Tour de France còn phải đua tính thời gian cá nhân hai lần và từ năm 2000 lại có đua tính thời gian đồng đội.
Ngay từ thời kỳ đầu, đường đua đã vượt biên giới nước Pháp trong vài chặng riêng lẻ. Từ năm 1954 địa điểm xuất phát cũng được tổ chức trong các nước lân cận không theo một quy luật nhất định (cho đến nay là ở Đức, Tây Ban Nha, Ý, các nước thuộc nhóm Benelux - gồm Bỉ, Hà Lan, Luxembourg-, Thụy Sĩ, Anh và Ireland). Kế hoạch tổ chức xuất phát Tour de France từ New York hay từ các phần đất nước Pháp ngoài châu Âu tuy đã có từ lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa được thực hiện vì các vấn đề về chi phí quá lớn.
Các chặng leo núi
Bên cạnh các cuộc đua theo thời gian, kết quả tổng kết của Tour de France năm nào cũng được quyết định ở trên các núi cao. Một số đèo và núi thường rất hay được đưa vào lộ trình của Tour de France và đã trở nên không thể thiếu qua thời gian.
Ba ngọn "núi thánh" của Tour de France là Col du Tourmalet (2.114 m, Pyrénées), đèo cao đầu tiên được đưa ở cuộc thi vào năm 1910, Col du Galibier (2.645 m, Alpes), được đưa vào một năm sau đó và Mont Ventoux (1.909 m, Provence) được đưa lần đầu tiên năm 1951 và đây là nơi đã chứng kiến cái chết thảm khốc của tay đua Tom Simpson vào năm 1967.
Thêm vào đó là cuộc leo núi lên trạm trượt tuyết L'Alpe d'Huez với 21 khúc quanh co lên tới độ cao 1.850 m, lần đầu tiên được chinh phục vào năm 1952, là đích đến trên núi đầu tiên trong lịch sử của Tour de France.
Các đội tuyển tham dự
Từ năm 1930 đến năm 1961 các đội tuyển quốc gia thi đấu trong Tour de France, bắt đầu từ thời điểm này các đội đua của công ty đã làm thay đổi bộ mặt của Tour de France. Hiện nay mỗi năm khoản 20 đến 22 đội chuyên nghiệp với 9 tay đua mỗi đội được mời tham dự Tour de France. Phần lớn các đội thường đến từ Pháp, Ý và Tây Ban Nha, thêm vào đó là một số đội từ Bỉ, Hà Lan, Đức, Đan Mạch, Thụy Sĩ và Mỹ. Vận động viên đến từ các quốc gia này chiếm phần lớn trong số các tay đua thi đấu. Một vài tay đua chuyên nghiệp riêng lẻ đến từ Trung Âu và Đông Âu, từ Scandinavia cũng như từ Columbia, Úc và Nam Phi.
Tham dự Tour de France nhiều nhất là tay đua người Hà Lan Joop Zoetemelk với 16 lần đều về đích, trong đó có 7 lần đứng trên bục chiến thắng (về nhất năm 1980). Hai người Bỉ tham dự 15 lần là Guy Nulens với kết quả xếp hạng tốt nhất là thứ 22 và Lucien van Impe (về nhất năm 1976).
Tổ chức
Tour de France được tờ báo thể thao L'Auto thành lập do muốn tăng số lượng phát hành. Tổng biên tập báo, Henri Desgrange, kiêm chức giám đốc của giải đấu cho đến khi ông qua đời năm 1939. Ở chức vụ này, ông là người đưa ra các quy trình quyết định tổ chức cuộc đua. Để tăng thêm sự kịch tính cho cuộc đua, Desgrande đưa ra chiếc áo vàng năm 1919 và chấm điểm leo núi năm 1933. Năm 1930 ông có sáng kiến thành lập các đội xe quảng cáo mà cho đến ngày nay vẫn chạy trước các tay đua theo các chặng đua và phân phát quà quảng cáo cho người xem. Desgrange đào tạo nhà báo Jacques Goddet làm người kế thừa ông trong cả chức vụ tổng biên tập lẫn giám đốc Tour de France, với kế hoạch ban đầu là nhận chức vụ từ 1936 đến 1986.
Sau khi nước Pháp được giải phóng năm 1944, tờ L'Auto ngừng hoạt động nhưng 2 năm sau đó Goddet thành lập tờ báo thể thao mới L'Equipe, tiếp tục nhận tổ chức Tour de France. Năm 1965, Nhóm nhà xuất bản Amaury mua lại L'Equipe và giám đốc đang nắm quyền là Goddet được bổ nhiệm thêm một giám đốc chịu trách nhiệm về kinh tế ở bên cạnh ông. So với người tiền nhiệm, Goddet rất cởi mở trong việc cho phép đưa cải tiến kỹ thuật vào sử dụng: ví dụ như ngay trong năm đầu tiên làm giám đốc, năm 1937, ông đã cho phép sử dụng xe đạp có bộ số.
Qua một thời gian tạm thời, năm 1989 Jean-Marie Leblanc, như những người tiền nhiệm cũng đến từ giới báo chí, lần đầu tiên nhậm chức giám đốc của Tour de France. Việc tổ chức cuộc đua được giao cho Amaury Sport Organisation (ASO). Chủ tịch tổ chức này, về mặt chính thức, nắm quyền kiểm soát cao nhất về cuộc đua, nhưng quyết định cụ thể vẫn thuộc về Leblanc mà dưới sự lãnh đạo của ông việc thương mại hóa Tour de France đã đạt đến một mức độ chuyên nghiệp mới.
Tiền thưởng
Ngay từ khi thành lập, Tour de France đã có tiền thưởng cho các tay đua chuyên nghiệp. Người đoạt giải nhất được tặng 20.000 Francs. Từ đó tiền thưởng được liên tục tăng lên. Trong Tour de France 2004 tổng cộng 3 triệu Euro đã được trao tặng trong đó có 400.000 Euro dành cho người đoạt giải chung cuộc. Mặc dù nhìn chung đó là các con số lớn nhưng phần thưởng của Tour vẫn kém xa các tiền thưởng của các giải khác như quần vợt hay golf. Trên thực tế ý nghĩa của tiền thưởng giảm đi theo thời gian vì các tay đua xuất sắc đạt thu nhập phần lớn không từ phần tiền thưởng mà từ các hợp đồng dài hạn với các đội đua xe. Mặc dù vậy, thành tích của một tay đua chuyên nghiệp được đánh giá rất theo kết quả trong Tour de France, vì thế nên một thành tích trong Tour có ảnh hưởng trực tiếp rất nhiều đến tài chính.
Các quy định
"La flamme rouge" trong Tour de France Việc đánh dấu các tay đua rất quan trọng nhằm để cho ban tổ chức cuộc đua không bị nhầm lẫn. Vì thế mà mỗi tay đua và xe đạp đều có một bảng số. Cơn ác mộng của tất cả các tay đua chuyên nghiệp chính là khi xe gặp sự cố. Vì thế khi có hư hỏng dọc đường, đồng đội hay ô tô trung lập chở phụ kiện thay thế được phép giúp đỡ. Khi có hư hỏng, chỉ được phép thay thế các bánh xe cho nhau trong cùng một đội. Bao giờ cũng chỉ được phép giúp đỡ đằng sau một nhóm tay đua đang chạy trước hay đằng sau nhóm tay đua chính của cuộc đua và ở lề đường bên phải.
Ngoài ra còn có giúp đỡ y tế: trong trường hợp cần sự giúp đỡ của bác sĩ, tay đua chỉ được phép nhận sự giúp đỡ từ các bác sĩ chính thức của ban tổ chức ở phía cuối của nhóm tay đua chính.
Mỗi chặng đua đều có 1 đến 2 nơi cung cấp lương thực và nước uống được đánh dấu và ngoài ra chỉ được phép sử dụng các gói lương thực và chai nước uống đã được ban tổ chức cho phép tại những nơi này. Các tay đua tự chịu rủi ro nếu nhận lấy lương thực và nước uống từ khán giả.
Việc phạm quy thường hay xảy ra vì không phải lúc nào các tay đua đều tuân thủ quy định. Tuy đã cấm các tay đua để các ô tô hay mô tô kéo đi hay sử dụng chúng để cản gió nhưng việc thường hay xảy ra là trong lúc thợ cơ khí sửa chữa bánh xe tay đua lại được phép giữ chặt vào ô tô. Khi có hư hỏng thường tay đua hay sử dụng ô tô của trưởng đội đua xe để bắt kịp nhóm tay đua chính. Các vi phạm như vậy chưa từng bị xử lý.
Trong giải đấu cũng thường có tay đua bỏ cuộc. Trong trường hợp này tay đua phải giao lại số xuất phát cho ban tổ chức. Bên cạnh các quy định của ban tổ chức còn có nhiều điều mà đội đua nào cũng phải có trách nhiệm tuân theo, ví dụ như các đội đua không được phép dàn xếp với nhau trước. Các tay đua cũng không được phép trả lời phỏng vấn trong khi đua, chỉ có huấn luyện viên đội mới được phép, ngoại trừ trong 20 km cuối cùng.
Không có đội đua xe nào trong Tour de France mà không có huấn luyện viên về thể thao. Những người này cũng phải tuân theo một số quy định nhất định. Huấn luyện viên không được phép tham dự vào các hoạt động bán hàng và quảng cáo. Mỗi đội đua có 4 ô tô, trong số đó chỉ được phép sử dụng 2 chiếc trong cuộc đua. Ô tô bao giờ cũng phải chạy bên phải, phía sau các ô tô của ban tổ chức và của bác sĩ và chỉ được phép chạy lên phía trước sau khi có lời yêu cầu qua "Radio Tour".
Quan trọng nhất trong một chặng đua là đích đến. Gần đích đến có flamme rouge đánh dấu kilômét cuối cùng. Nếu có tai nạn xảy ra sau flamme rouge các tay đua trong sự cố sẽ nhận lấy thời gian của nhóm tay đua cùng với họ. Flamme rouge được đưa ra từ năm 1906.
Mỗi chặng đua đều có một thời gian tối thiểu nhất định mà tất cả các tay đua đều phải về đích trước thời gian đó. Việc tuân thủ các quy định được giám sát viên của cuộc đua chạy trên mô tô theo dõi, nếu có vi phạm họ có thể phạt tùy theo mức độ.
Lịch sử
Colors = id:canvas value:rgb(0.976,0.976,0.976) id:France value:rgb(0.96,0.96,0.3) legend:France id:Belgium value:rgb(1,0.5,1) legend:Belgium id:Spain value:rgb(1,0.3,0.3) legend:Spain id:Italy value:rgb(0.1,0.95,0.2) legend:Italy id:GBR value:rgb(0.8,0.4,0.8) legend:United_Kingdom id:Luxembourg value:rgb(0,0.8,0.8) legend:Luxembourg id:Denmark value:rgb(0.7,0.9,0.5) legend:Denmark id:Slovenia value:rgb(0.2,0.7,0.4) legend:Slovenia id:US value:rgb(0.5,0.5,1) legend:United_States id:Netherlands value:rgb(0.9,0.5,0.2) legend:Netherlands id:Switzerland value:rgb(0.8,0.8,1) legend:Switzerland id:Australia value:rgb(0.7,0.7,0.8) legend:Australia id:Colombia value:rgb(1,1,0) legend:Colombia id:Germany value:rgb(1,0.6,0.6) legend:Germany id:Ireland value:rgb(0.1,0.6,0.3) legend:Ireland id:War value:rgb(1,1,1) id:None value:rgb(1,1,1)
id:linemark value:gray(0.8) id:linemark2 value:gray(0.9) id:legend value:gray(0.5)
BackgroundColors = canvas:canvas
Legend = orientation:vertical columns:1 top:278 left: 45
PlotData = shift:(20,0) mark:(line,linemark) anchor:till from:1903 till:1904 text:"Maurice Garin" color:France from:1904 till:1905 text:"Henri Cornet" color:France from:1905 till:1906 text:"Louis Trousselier" color:France from:1906 till:1907 text:"René Pottier" color:France from:1907 till:1908 text:"Lucien Petit-Breton" color:France from:1908 till:1909 text:"Lucien Petit-Breton 2" color:France from:1909 till:1910 text:"François Faber" color:Luxembourg from:1910 till:1911 text:"Octave Lapize" color:France from:1911 till:1912 text:"Gustave Garrigou" color:France from:1912 till:1913 text:"Odile Defraye" color:Belgium from:1913 till:1914 text:"Philippe Thys" color:Belgium from:1914 till:1915 text:"Philippe Thys 2" color:Belgium from:1915 till:1919 text:"World War I" color:War shift:(30,17) from:1919 till:1920 text:"Firmin Lambot" color:Belgium from:1920 till:1921 text:"Philippe Thys 3" color:Belgium from:1921 till:1922 text:"Léon Scieur" color:Belgium from:1922 till:1923 text:"Firmin Lambot 2" color:Belgium from:1923 till:1924 text:"Henri Pélissier" color:France from:1924 till:1925 text:"Ottavio Bottecchia" color:Italy from:1925 till:1926 text:"Ottavio Bottecchia 2" color:Italy from:1926 till:1927 text:"Lucien Buysse" color:Belgium from:1927 till:1928 text:"Nicolas Frantz" color:Luxembourg from:1928 till:1929 text:"Nicolas Frantz 2" color:Luxembourg from:1929 till:1930 text:"Maurice de Waele" color:Belgium from:1930 till:1931 text:"André Leducq" color:France from:1931 till:1932 text:"Antonin Magne" color:France from:1932 till:1933 text:"André Leducq 2" color:France from:1933 till:1934 text:"Georges Speicher" color:France from:1934 till:1935 text:"Antonin Magne 2" color:France from:1935 till:1936 text:"Romain Maes" color:Belgium from:1936 till:1937 text:"Sylvère Maes" color:Belgium from:1937 till:1938 text:"Roger Lapébie" color:France from:1938 till:1939 text:"Gino Bartali" color:Italy from:1939 till:1940 text:"Sylvère Maes 2" color:Belgium from:1940 till:1947 text:"World War II" color:War shift:(30, 35) from:1947 till:1948 text:"Jean Robic" color:France from:1948 till:1949 text:"Gino Bartali 2" color:Italy from:1949 till:1950 text:"Fausto Coppi" color:Italy mark:(line,linemark2) from:1950 till:1951 text:"Ferdinand Kubler" color:Switzerland from:1951 till:1952 text:"Hugo Koblet" color:Switzerland from:1952 till:1953 text:"Fausto Coppi 2" color:Italy from:1953 till:1954 text:"Louison Bobet" color:France from:1954 till:1955 text:"Louison Bobet 2" color:France from:1955 till:1956 text:"Louison Bobet 3" color:France from:1956 till:1957 text:"Roger Walkowiak" color:France from:1957 till:1958 text:"Jacques Anquetil" color:France from:1958 till:1959 text:"Charly Gaul" color:Luxembourg from:1959 till:1960 text:"Federico Bahamontes" color:Spain from:1960 till:1961 text:"Gastone Nencini" color:Italy from:1961 till:1962 text:"Jacques Anquetil 2" color:France from:1962 till:1963 text:"Jacques Anquetil 3" color:France from:1963 till:1964 text:"Jacques Anquetil 4" color:France from:1964 till:1965 text:"Jacques Anquetil 5" color:France from:1965 till:1966 text:"Felice Gimondi" color:Italy from:1966 till:1967 text:"Lucien Aimar" color:France from:1967 till:1968 text:"Roger Pingeon" color:France from:1968 till:1969 text:"Jan Janssen" color:Netherlands from:1969 till:1970 text:"Eddy Merckx" color:Belgium from:1970 till:1971 text:"Eddy Merckx 2" color:Belgium from:1971 till:1972 text:"Eddy Merckx 3" color:Belgium from:1972 till:1973 text:"Eddy Merckx 4" color:Belgium from:1973 till:1974 text:"Luis Ocaña" color:Spain from:1974 till:1975 text:"Eddy Merckx 5" color:Belgium from:1975 till:1976 text:"Bernard Thévenet" color:France from:1976 till:1977 text:"Lucien van Impe" color:Belgium from:1977 till:1978 text:"Bernard Thévenet 2" color:France from:1978 till:1979 text:"Bernard Hinault" color:France from:1979 till:1980 text:"Bernard Hinault 2" color:France from:1980 till:1981 text:"Joop Zoetemelk" color:Netherlands from:1981 till:1982 text:"Bernard Hinault 3" color:France from:1982 till:1983 text:"Bernard Hinault 4" color:France from:1983 till:1984 text:"Laurent Fignon" color:France from:1984 till:1985 text:"Laurent Fignon 2" color:France from:1985 till:1986 text:"Bernard Hinault 5" color:France from:1986 till:1987 text:"Greg LeMond" color:US from:1987 till:1988 text:"Stephen Roche" color:Ireland from:1988 till:1989 text:"Pedro Delgado" color:Spain from:1989 till:1990 text:"Greg LeMond 2" color:US from:1990 till:1991 text:"Greg LeMond 3" color:US from:1991 till:1992 text:"Miguel Induráin" color:Spain from:1992 till:1993 text:"Miguel Induráin 2" color:Spain from:1993 till:1994 text:"Miguel Induráin 3" color:Spain from:1994 till:1995 text:"Miguel Induráin 4" color:Spain from:1995 till:1996 text:"Miguel Induráin 5" color:Spain from:1996 till:1997 text:"Bjarne Riis" color:Denmark from:1997 till:1998 text:"Jan Ullrich" color:Germany from:1998 till:1999 text:"Marco Pantani" color:Italy from:1999 till:2006 text:"Danh hiệu bị tước" color:None shift:(30, 35) from:2006 till:2007 text:"Óscar Pereiro" color:Spain from:2007 till:2008 text:"Alberto Contador" color:Spain from:2008 till:2009 text:"Carlos Sastre" color:Spain from:2009 till:2010 text:"Alberto Contador 2" color:Spain from:2010 till:2011 text:"Andy Schleck" color:Luxembourg from:2011 till:2012 text:"Cadel Evans" color:Australia from:2012 till:2013 text:"Bradley Wiggins" color:GBR from:2013 till:2014 text:"Chris Froome" color:GBR from:2014 till:2015 text:"Vincenzo Nibali" color:Italy from:2015 till:2016 text:"Chris Froome 2" color:GBR from:2016 till:2017 text:"Chris Froome 3" color:GBR from:2017 till:2018 text:"Chris Froome 4" color:GBR from:2018 till:2019 text:"Geraint Thomas" color:GBR from:2019 till:2020 text:"Egan Bernal" color:Colombia from:2020 till:2021 text:"Tadej Pogačar" color:Slovenia from:2021 till:2022 text:"Tadej Pogačar 2" color:Slovenia from:2022 till:2023 text:"Jonas Vingegaard" color:Denmark from:2023 till:2024 text:"Jonas Vingegaard 2" color:Denmark from:2024 till:2025 text:"Tadej Pogačar 3" color:Slovenia shift:(-10,-4) anchor:middle align:left width:30 textcolor:black
from:1903 till:1904 text:FRA color:France from:1904 till:1905 text:FRA color:France from:1905 till:1906 text:FRA color:France from:1906 till:1907 text:FRA color:France from:1907 till:1908 text:FRA color:France from:1908 till:1909 text:FRA color:France from:1909 till:1910 text:LUX color:Luxembourg from:1910 till:1911 text:FRA color:France from:1911 till:1912 text:FRA color:France from:1912 till:1913 text:BEL color:Belgium from:1913 till:1914 text:BEL color:Belgium from:1914 till:1915 text:BEL color:Belgium from:1919 till:1920 text:BEL color:Belgium from:1920 till:1921 text:BEL color:Belgium from:1921 till:1922 text:BEL color:Belgium from:1922 till:1923 text:BEL color:Belgium from:1923 till:1924 text:FRA color:France from:1924 till:1925 text:ITA color:Italy from:1925 till:1926 text:ITA color:Italy mark:(line,linemark2) from:1926 till:1927 text:BEL color:Belgium from:1927 till:1928 text:LUX color:Luxembourg from:1928 till:1929 text:LUX color:Luxembourg from:1929 till:1930 text:BEL color:Belgium from:1930 till:1931 text:FRA color:France from:1931 till:1932 text:FRA color:France from:1932 till:1933 text:FRA color:France from:1933 till:1934 text:FRA color:France from:1934 till:1935 text:FRA color:France from:1935 till:1936 text:BEL color:Belgium from:1936 till:1937 text:BEL color:Belgium from:1937 till:1938 text:FRA color:France from:1938 till:1939 text:ITA color:Italy from:1939 till:1940 text:BEL color:Belgium from:1947 till:1948 text:FRA color:France from:1948 till:1949 text:ITA color:Italy from:1949 till:1950 text:ITA color:Italy mark:(line,linemark2) from:1950 till:1951 text:SWI color:Switzerland from:1951 till:1952 text:SWI color:Switzerland from:1952 till:1953 text:ITA color:Italy from:1953 till:1954 text:FRA color:France from:1954 till:1955 text:FRA color:France from:1955 till:1956 text:FRA color:France from:1956 till:1957 text:FRA color:France from:1957 till:1958 text:FRA color:France from:1958 till:1959 text:LUX color:Luxembourg from:1959 till:1960 text:SPA color:Spain from:1960 till:1961 text:ITA color:Italy from:1961 till:1962 text:FRA color:France from:1962 till:1963 text:FRA color:France from:1963 till:1964 text:FRA color:France from:1964 till:1965 text:FRA color:France from:1965 till:1966 text:ITA color:Italy from:1966 till:1967 text:FRA color:France from:1967 till:1968 text:FRA color:France from:1968 till:1969 text:NET color:Netherlands from:1969 till:1970 text:BEL color:Belgium from:1970 till:1971 text:BEL color:Belgium from:1971 till:1972 text:BEL color:Belgium from:1972 till:1973 text:BEL color:Belgium from:1973 till:1974 text:SPA color:Spain from:1974 till:1975 text:BEL color:Belgium from:1975 till:1976 text:FRA color:France from:1976 till:1977 text:BEL color:Belgium from:1977 till:1978 text:FRA color:France from:1978 till:1979 text:FRA color:France from:1979 till:1980 text:FRA color:France from:1980 till:1981 text:NET color:Netherlands from:1981 till:1982 text:FRA color:France from:1982 till:1983 text:FRA color:France from:1983 till:1984 text:FRA color:France from:1984 till:1985 text:FRA color:France from:1985 till:1986 text:FRA color:France from:1986 till:1987 text:USA color:US from:1987 till:1988 text:IRE color:Ireland from:1988 till:1989 text:SPA color:Spain from:1989 till:1990 text:USA color:US from:1990 till:1991 text:USA color:US from:1991 till:1992 text:SPA color:Spain from:1992 till:1993 text:SPA color:Spain from:1993 till:1994 text:SPA color:Spain from:1994 till:1995 text:SPA color:Spain from:1995 till:1996 text:SPA color:Spain from:1996 till:1997 text:DEN color:Denmark from:1997 till:1998 text:GER color:Germany from:1998 till:1999 text:ITA color:Italy from:2006 till:2007 text:SPA color:Spain from:2007 till:2008 text:SPA color:Spain from:2008 till:2009 text:SPA color:Spain from:2009 till:2010 text:SPA color:Spain from:2010 till:2011 text:LUX color:Luxembourg from:2011 till:2012 text:AUS color:Australia from:2012 till:2013 text:GBR color:GBR from:2013 till:2014 text:GBR color:GBR from:2014 till:2015 text:ITA color:Italy from:2015 till:2016 text:GBR color:GBR from:2016 till:2017 text:GBR color:GBR from:2017 till:2018 text:GBR color:GBR from:2018 till:2019 text:GBR color:GBR from:2019 till:2020 text:COL color:Colombia from:2020 till:2021 text:SLO color:Slovenia from:2021 till:2022 text:SLO color:Slovenia from:2022 till:2023 text:DEN color:Denmark from:2023 till:2024 text:DEN color:Denmark from:2024 till:2025 text:SLO color:Slovenia
TextData = pos:(15,308) tabs:(0-left,35-left,150-right) text:^ Key^ ^ fontsize:M text:^Abb.^ Country^Vic. fontsize:S textcolor:legend text:^FRA^ ^36 lineheight:17 text:^BEL^ ^18 lineheight:17 text:^SPA^ ^12 lineheight:17 text:^ITA^ ^10 lineheight:17 text:^GBR^ ^6 lineheight:17 text:^LUX^ ^5 lineheight:17 text:^DEN^ ^3 lineheight:17 text:^SLO^ ^3 lineheight:17 text:^USA^ ^3 lineheight:17 text:^NET^ ^2 lineheight:17 text:^SWI^ ^2 lineheight:17 text:^AUS^ ^1 lineheight:17 text:^COL^ ^1 lineheight:17 text:^GER^ ^1 lineheight:17 text:^IRE^ ^1 lineheight:17
Ngày 1 tháng 7 năm 1903 Tour de France 1903 bắt đầu tại Montgeron ở ngoại ô thành phố Paris. Với 60 vận động viên tham dự, cuộc đua bao gồm 6 chặng với chiều dài tổng cộng là 2.428 km từ Paris qua các thành phố (đồng thời là đích đến của từng chặng) Lyon, Marseille, Toulouse, Bordeaux và Nantes rồi quay về Paris. Giữa các chặng có nhiều ngày nghỉ. Người chiến thắng của cuộc đua đầu tiên là tay đua người Pháp được hâm mộ lúc bấy giờ Maurice Garin với vận tốc trung bình trên 25 km/h. Tiền thưởng cho giải nhất là 3.000 Francs.
Các cuộc đua sau đó lúc đầu mang dấu ấn của một loạt các vụ bê bối mà lên đến đỉnh điểm là việc loại trừ 4 người đứng đầu kết quả chung cuộc trong Tour de France 1904 nửa năm sau khi cuộc đua chấm dứt vì lý do đã sử dụng tàu hỏa không phép. Mặc dầu vậy qua thập niên 1900 Tour de France đã củng cố được vị trí của mình. Khoảng thời gian trước Chiến tranh thế giới thứ nhất sau này được gọi là "Thời kỳ anh hùng" của Tour de France vì trong thời gian đó thường đua các đoạn đường dài hơn 400 km trong một ngày mà nhìn lại từ góc độ của ngày nay, với các trang bị kỹ thuật cơ bản cho các xe đua cũng như với chất lượng của đường đua chỉ còn tìm thấy hiện giờ trong một số đoạn đường ngắn lát đá của cuộc đua xe đạp cổ điển Paris-Roubaix. Các chặng đường đua trên núi cao, lần đầu tiên vào năm 1910 trên núi Pyrenees, phần nhiều là trên các đoạn đường dùng để lùa bò lên núi, đã gắn thêm cho cuộc đua một biệt danh mới: "Tour đau khổ". Tiếp theo một năm sau đó là núi Alpes đựoc đưa vào cuộc đua.
Tổng số các chặng đua được liên tiếp nâng lên thành 11 (1905), 15 (1910), 18 (1925) và cuối cùng là đến 24 chặng (1931). Tổng cộng chiều dài tăng lên cho đến 5.500 km. Các ngày nghỉ mà từ năm 1906 thường xuyên có sau mỗi chặng đua dần được hủy bỏ. Bắt đầu từ thập niên 1950 Tour de France được thi đấu gần giống với hình thức của ngày nay.
Vận tốc đua nhanh nhất với hình thức xuất phát đồng thời đo được ở chặng đua từ Laval tới Blois (194,5 km) năm 1999, với Mario Cipollini giành chiến thắng với vận tốc đạt được lên tới 50,4 km/h. Ở vòng đua tính giờ, Rohan Dennis giữ kỷ lục với vận tốc đo được là 55,446 km/h ở chặng 1 Tour de France năm 2015. Ở hạng mục đồng đội tính giờ, đội Orica GreenEDGE giữ kỷ lục khi hoành thành chặng 5 ở Nice dài 25km năm 2013 với vận tốc 57,8 km/h.
Tour de France bị phủ bóng tối hai lần vì một tay đua tử vong. Ngày 13 tháng 7 năm 1967 ngay trước đỉnh của Mont Ventoux tay đua chuyên nghiệp người Anh Tom Simpson đã ngã tử vong ngay tại chỗ. Nguyên nhân là việc dùng amphetamine làm chất kích thích cộng với rượu để giảm đau. Năm 1955 tay đua chuyên nghiệp trẻ tuổi người Ý Fabio Casartelli đã qua đời vì các thương tích do té ngã lúc xuống dốc Col du Portet d’Aspet (Pyrenees).
Doping
Trong cuộc đua Tour de France 1998 bộ môn xe đạp đã trải qua một cơn khủng hoảng về độ tin cậy: trong vụ Festina đội đua xe đạp hàng đầu Festina (với các ngôi sao Richard Virenque và Alex Zülle) bị phát hiện là đã sử dụng các chất kích thích rộng rãi và có hệ thống sau khi Willy Voet, giám sát đội đua, vô tình tìm thấy một lượng lớn các chất không được phép sử dụng, nhiều nhất là erythropoietin (EPO). Phát hiện này chỉ ra sự vô ích của các phương pháp kiểm tra doping lúc bấy giờ: không một tay đua nào của Festina có kết quả thử nghiệm dương tính. Sau đó đội tuyển Festina và MTV bị loại khỏi cuộc đua, các đội tuyển từ Tây Ban Nha đã phản đối cuộc điều tra của cơ quan Pháp bằng cách rút lui khỏi cuộc đua. Cuối cùng Marco Pantani đã chiến thắng giải Tour de France 1998, người mà một năm sau đó bị loại ra khỏi Giro d'Italia vì có nồng độ hematocrit quá cao biểu lộ đã dùng chất kích thích.
Vụ Festina chỉ là phần nổi của vấn đề doping đeo đuổi Tour de France từ hàng chục năm nay. Năm 1966, thời điểm lần đầu tiên có kiểm tra doping không báo trước, các tay đua đã biểu tình vào ngày hôm sau. Năm 1967, Tom Simpson đã chết trong lúc đang lên núi Mont Ventoux vì dùng amphetamine. Trong thập niên 1970 và thập niên 1980 mặc dù việc kiểm tra có rất nhiều thiếu sót nhưng nhiều lần một số tay đua đã có kết quả thử nghiệm dương tính, trong số đó có những người chiến thắng giải như Felice Gimondi, Joop Zoetemelk, Pedro Delgado và Laurent Fignon. Nhiều tay đua hàng đầu khác sau khi giải nghệ thừa nhận việc dùng chất kích thích.
Từ năm 1999 đến 2005, Lance Armstrong là người chiến thắng 7 lần liên tiếp. Vào tháng 8 năm 2005, một tháng sau chiến thắng thứ 7 của Amstrong, L'Équipe đã xuất bản một tài liệu tiết lộ Armstrong đã sử dụng EPO trong cuộc đua năm 1999. Trong cuộc đua năm đó, mẫu thử nước tiểu của Armstrong cho thấy có dấu hiệu của hormone glucocorticosteroid, mặc dù ở dưới ngưỡng cho phép. Amstrong giải thích là do sử dụng kem dưỡng da có thành phần triamcinolone để trị các vết cháy nắng.
Đến tháng 10 năm 2012, bóng ma doping lại bao phủ giải đấu khi Cơ quan Phòng chống Doping Mỹ (USADA) đưa ra một báo cáo cho thấy đội đua Bưu điện Mỹ đã bao che, gian dối một cách có tổ chức trong việc sử dụng Doping, bao gồm Amstrong và những tay đua khác. Các hành vi vi phạm bao gồm sử dụng một các rộng rãi EPO, truyền máu, testosterone và các chất cấm khác. Đến tháng 10 cùng năm, Liên đoàn Xe đạp Quốc tế (UCI) đã xác nhận báo cáo này, chính thức tước toàn bộ danh hiệu của Lance Amstrong đạt được từ mùng 1 tháng 8 năm 1998, bao gồm cả bẩy chiến thắng liên tiếp và công bố rằng các danh hiệu này sẽ không được chuyển cho các tay đua khác.
Trong một thời gian dài việc lên án về mặt luật pháp cũng như công khai đều không được xem xét. Với cách giải quyết vấn đề doping thường ít nhất quán, Liên đoàn Xe đạp Quốc tế (UCI) đã góp phần ngày càng công khai việc gắn liền bộ môn thể thao đua xe đạp vào việc dùng chất kích thích. Ngày nay môn thể thao xe đạp có một trong những môn có hệ thống kiểm tra doping chặt chẽ nhất trong tất cả các môn thể thao quốc tế.
Những người đoạt giải
Thời gian hoàn thành đua của từng tay đua qua tất cả các chặng được ghi lại và cộng tổng để ra thành tích cuối. Người nào cuối cùng về đến Paris với tổng số thời gian ngắn nhất là người chiến thắng cuộc đua. Các tay đua xuất sắc ngày nay chỉ cách nhau vài phút trong khi người cuối cùng thường có khoảng cách từ 3 đến 4 tiếng đồng hồ.
Tay đua người Mỹ Lance Armstrong là người đầu tiên chiến thắng cuộc đua 8 lần, với 7 lần liên tiếp từ 1999 đến 2005.Tuy nhiên sau nhưng bê bối liên quan đến doping, Lance Amstrong bị tước hết mọi danh hiệu, nên kết quả chính thức là Lance không có danh hiệu. Jacques Anquetil (Pháp, 1957 và từ 1961 đến 1964), Eddy Merckx (Bỉ, từ 1969 đến 1972, 1974), Bernard Hinault (Pháp, 1978, 1979, 1981, 1982 và 1985) và Miguel Induráin (Tây Ban Nha, từ 1991 đến 1995) đoạt giải 5 lần. Người đứng trên bục chiến thắng nhiều nhất là Raymond Poulidor với 3 lần về nhì và 5 lần về ba nhưng lại chưa từng đoạt giải nhất
Người chiến thắng giải trẻ tuổi nhất là Henri Cornet, 20 tuổi vào năm 1904 tuy chỉ được công nhận là người đoạt giải sau đó. Người chiến thắng lớn tuổi nhất là Firmin Lambot, đoạt giải Tour trong năm 1922 với 36 tuổi. Greg Lemond giành chiến thắng sít sao nhất trong Tour de France 1989 khi anh chỉ về trước Laurent Fignon 8 giây. Kỷ lục về khoảng cách lâu nhất trong thời kỳ hiện đại của Tour de France (từ 1947) là do Fausto Coppi lập nên năm 1952 khi anh về trước người thứ nhì, Stan Ockers, 28 phút.
Với 36 lần chiến thắng nước Pháp chiếm số lần đoạt giải nhiều nhất, kế đến là Bỉ (18 lần). Tiếp theo đó với một khoảng cách khá xa là Tây Ban Nha (12 lần), Ý (10 lần), UK (6 lần), Luxembourg (5 lần), Thụy Sĩ và Hà Lan (2 lần). Việc Pháp và Bỉ chiếm ưu thế trong thống kê không phản ánh thực tế. Người chiến thắng cuối cùng từ 2 quốc gia này đã đạt giải cách đây gần 20 năm: Bernard Hinault giành chiến thắng thắng lần thứ năm của anh trong năm 1985. Bắt đầu từ thời điểm này một loạt các quốc gia mới đã điền tên mình vào danh sách chiến thắng: nước Mỹ với chiến thắng đầu tiên năm 1989, Ireland lần đầu tiên năm 1987, Đan Mạch năm 1996. Năm 1997 tay đua 23 tuổi Jan Ullrich đã mang lại chiến thắng đầu tiên và cho đến nay là chiến thắng duy nhất về cho nước Đức.
Các màu áo trong Tour de France
Trong Tour de France, một số áo có màu sắc nổi bật được dùng để đánh dấu các tay đua xuất sắc nhất theo nhiều cách tính điểm. Sau mỗi chặng đều có nghi thức mặc áo cho các tay đua. Mỗi một chiếc áo đều do một nhà tài trợ thiết kế. Các tay đua có trách nhiệm mặc những chiếc áo này. Khi một tay đua đồng thời chiếm nhiều áo thì anh sẽ mặc chiếc áo quan trọng hơn thường theo thứ tự: áo vàng, xanh rồi đến chấm đỏ. Trong trường hợp này chiếc áo đứng thứ tự thấp hơn sẽ được trao cho người đứng thứ hai của bảng xếp hạng. Năm 1969 Eddy Merckx là người duy nhất đã giành được 3 chiếc áo trong cùng một năm.
Áo vàng
Tập tin:Jersey yellow.svg Tay đua có tổng số thời gian ngắn nhất mang chiếc áo vàng (tiếng Pháp: le maillot jaune) nổi tiếng dành cho người đang dẫn đầu bảng tổng sắp. Chiếc áo này được đưa ra năm 1919 để người xem có thể dễ nhận ra người đang dẫn đầu. Người mang chiếc áo này đầu tiên là tay đua người Pháp Eugène Christophe. "Kẻ ăn thịt người", 5 lần chiến thắng Tour de France, tay đua người Bỉ Eddy Merckx, mang chiếc áo này lâu nhất, tổng cộng là trong 111 chặng đua. tay đua duy nhất mang chiếc áo vàng từ chặng đua đầu tiên đến chặng đua cuối cùng là người Luxembourg Nicolas Frantz năm 1928: là người chiến thắng giải năm trước đó anh đã khoác chiếc áo này ngay từ ở chặng đầu tiên và đã không trao lại cho đến chặng cuối cùng.
Áo xanh
Tập tin:Jersey green.svg Người chạy nước rút nhanh nhất được danh dự mang chiếc áo xanh (le maillot vert) từ năm 1953. Hạng này được xếp theo một hệ thống chấm điểm, trước nhất là khi về đích của các chặng nhưng các cuộc đua nước rút giữa chặng cũng được đánh giá. Các chặng đua bằng phẳng được tính nhiều hơn các chặng leo núi. Tay đua Đức Erik Zabel đã 6 lần liên tiếp (từ 1996 đến 2001) mang chiếc áo xanh về đến Paris và đang giữ kỷ lục trước Sean Kelly (4 lần trong khoảng thời gian từ 1982 đến 1989).
Áo chấm đỏ
Tập tin:Jersey polkadot.svg Phần thưởng cho giải leo núi đã có từ năm 1933 nhưng mãi đến năm 1975 chiếc áo trắng chấm đỏ (le maillot à pois rouges) mới được trao cho giải này. Áo chấm đỏ được trao sau khi leo núi qua 4 thể loại từ thể loại 4 (dễ) đến 1 (khó) và hors categorie (rất khó). Duy nhất chỉ có Richard Virenque (Pháp) là đã chiến thắng 7 lần giải leo núi trong khoảng thời gian từ 1994 cho đến 2004, tiếp theo là Federico Bahamontes (Tây Ban Nha, 1954-1964) và Lucien van Impe (Bỉ, 1971-1983) với 6 lần giành áo.
Áo trắng
Tay đua chuyên nghiệp trẻ (dưới 25 tuổi trong năm thi đấu) nhanh nhất. Giải này được đưa vào chương trình năm 1975, cách chấm điểm tương tự như cách chấm điểm cho áo vàng.
Áo xanh lá cây đậm
Đội tuyển nhanh nhất (từ 1930). Thời gian của 3 tay đua nhanh nhất trong mỗi đội được cộng lại sau mỗi chặng đua để xếp thứ tự cho hạng này.
Số xuất phát màu xanh nước biển
Tay đua "hung hãn" (aggressive) nhất (trước 2004 là màu đỏ) được một ban giám khảo bình chọn sau mỗi chặng.