✨Tiếng Karakalpak

Tiếng Karakalpak

Tiếng Karakalpak là một ngôn ngữ Turk được nói bởi người Karakalpak ở Karakalpakstan. Nó được chia thành hai phương ngữ, Karakalpak Đông Bắc và Karakalpak Đông Nam. Nó phát triển cùng với tiếng Kazakh và tiếng Uzbek láng giềng và chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi cả hai ngôn ngữ này. Về mặt hình thái, tiếng Karakalpak thuộc nhánh Kipchak của ngữ hệ Turk, do đó nó có mối quan hệ chặt chẽ và một phần thông hiểu với tiếng Kazakh.

Phân loại

Tiếng Karakalpak là một thành viên của nhóm Kipchak, một nhóm bao gồm cả tiếng Tatar, tiếng Kumyk, tiếng Nogai và tiếng Kazakh. Do gần gũi với tiếng Uzbek, phần lớn từ vựng và ngữ pháp của tiếng Karakalpak chịu ảnh hưởng bởi tiếng Uzbek. Giống như đại đa số các ngôn ngữ Turk, tiếng Karakalpak có luật hài hòa nguyên âm, có tính chắp dính và không có giống ngữ pháp. Trật tự câu thường là chủ-tân-động.

Phân bố địa lý

Tiếng Karakalpak được nói chủ yếu ở Cộng hòa tự trị Karakalpakstan của Uzbekistan. Khoảng 2.000 người ở Afghanistan và những người di cư nhỏ hơn ở Nga, Kazakhstan, Thổ Nhĩ Kỳ và các nơi khác trên thế giới nói tiếng Karakalpak.

Tình trạng chính thức

Tiếng Karakalpak có vị thế chính thức tại Cộng hòa tự trị Karakalpakstan.

Phương ngữ

Ethnologue xác định hai phương ngữ của tiếng Karakalpak: Đông Bắc và Tây Nam. Menges đề cập đến một phương ngữ thứ ba có thể được nói ở Thung lũng Fergana. Phương ngữ Tây Nam có /tʃ/ thay cho /ʃ/ của phương ngữ Đông Bắc.

Âm vị học

Tiếng Karakalpak có 21 âm vị phụ âm bản địa và thường xuyên sử dụng bốn âm vị phi bản địa trong các từ mượn. phải|nhỏ|250x250px|Nguyên âm tiếng Karakalpak, từ

Luật hài hòa nguyên âm

Luật hài hòa nguyên âm hoạt động trong tiếng Karakalpak nhiều như trong các ngôn ngữ Turk khác. Các từ mượn từ tiếng Nga hoặc các ngôn ngữ khác có thể không tuân theo các quy tắc hài hòa nguyên âm, nhưng các quy tắc sau thường được áp dụng:

Hệ thống chữ viết

Tiếng Karakalpak được viết bằng chữ Ả Rập và chữ Ba Tư cho đến năm 1928, bằng chữ Latinh (có thêm ký tự) từ năm 1928 đến 1940, sau đó chữ Kirin được thêm vào. Sau khi Uzbekistan độc lập vào năm 1991, quyết định đã được đưa ra để bỏ chữ Kirin và trở lại bảng chữ cái Latinh. Trong khi việc sử dụng chữ viết Latinh hiện đang phổ biến ở Tashkent, việc đưa nó vào Karakalpakstan vẫn cứ từ từ.

Các chữ cái Kirin và Latinh được hiển thị bên dưới với các biểu diễn tương đương của chúng trong IPA. Các chữ cái Kirin không có chữ cái Latinh tương ứng được đánh dấu bằng dấu hoa thị. Những thay đổi cuối cùng đối với bảng chữ cái Karakalpak mới đã được thực hiện vào năm 2016: thay vì các chữ cái có dấu nháy đơn, các chữ cái có dấu phụ được tạo ra. Do đó, bảng chữ cái Karakalpak mới sẽ hoạt động giống như cách bảng chữ cái tiếng Kazakh và tiếng Uzbek mới làm đại diện; đó là, với acutes.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiếng Karakalpak** là một ngôn ngữ Turk được nói bởi người Karakalpak ở Karakalpakstan. Nó được chia thành hai phương ngữ, Karakalpak Đông Bắc và Karakalpak Đông Nam. Nó phát triển cùng với tiếng Kazakh
**Tiếng Kazakh** (, қазақша, __, _qazaqşa_, , _قازاقشا_; phát âm ) là một ngôn ngữ Turk thuộc về nhánh Kipchak (hay Turk Tây Bắc), và có quan hệ gần với tiếng Nogai, tiếng Kyrgyz, và
thumb|Bản đồ ngôn ngữ của vùng Kavkaz: Tiếng Nogai được nói ở những vùng màu xanh nhạt, được đánh số "26." **Tiếng Nogai** (; _Ногай тили, Nogay tili, Ногайша, Nogayşa_) còn được gọi là **Noğay**,
**Quốc ca Cộng hòa Karakalpakstan** (Tiếng Karakalpak: Qaraqalpaqstan respublikasınıń Mámleketlik Gimni; Tiếng Uzbek: Qoraqalpog'iston respublikasi Davlat Madhiyasi) là một trong những biểu tượng của Cộng hoà Karakalpakstan, cùng với cờ và huy hiệu. Bài quốc
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
**Quốc huy Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan** đã được thông qua vào ngày 14 tháng 2 năm 1937 bởi chính phủ của Uzbekistan Xô viết. Quốc huy này dựa trên Quốc
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Khosiyat Rustam** là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của Uzbekistan, đồng thời là dịch giả, tác giả của một số kịch bản. Năm 2019, cô được trao giải thưởng "Bút vàng"
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
thumb|Ẩm thực của người Kazakh bắt đầu phát triển vào [[thế kỷ 13.]] **Văn hóa Kazakh** trong thời kì hiện đại mang sự đặc trưng chủ yếu là do sự kết hợp giữa nền văn
**Cộng hòa Xô viết Nhân dân Khorezm** (Tiếng Uzbek: _Xorazm Xalq Sho'ro Jumhuriyati_; Tiếng Nga: _Хорезмская Народная Советская Республика, Khorezmskaya Narodnaya Sovetskaya Respublika_) là một nhà nước được thành lập trên cơ sở kế thừa
right **Qaraqalpaqstan** hay **Karakalpakstan** ( hay _Қарақалпақстан Республикасы_; hay ) là một nước cộng hòa tự trị thuộc Uzbekistan. Nó chiếm toàn bộ phần tây bắc của Uzbekistan. Thủ phủ là Nukus (tiếng Qaraqalpaq: No'kis
**Kreka** hay **Hereka** là vợ của Attila. Priscus trong suốt thời kỳ lưu lại triều đình của Attila vào năm 448 hoặc 449 sau Công nguyên đã viết như sau "_ngày hôm sau, tôi đến
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Tajikistan** (tiếng Nga:Таджикская Автономная Социалистическая Советская Республика) là một nước cộng hòa tự trị thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan thuộc
**Oe** (Ө ө; in nghiêng: _Ө ө_) là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. ## Sử dụng Ө được sử dụng trong bảng chữ cái tiếng Bashkir,
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Kazakhstan** (; ), viết tắt là **Kazak ASSR** (; ), là một nước cộng hòa tự trị của Liên Xô trong Cộng hòa Xã hội
**Bồn địa Fergana**, hoặc gọi **thung lũng Fergana**, là bồn địa sơn gian nằm giữa dãy núi Thiên Sơn và dãy núi Gissar - Alay, ở vào khu vực giáp giới ba nước Uzbekistan, Tajikistan