✨Thảm sát Malmedy

Thảm sát Malmedy

Thảm sát Malmedy là một tội ác chiến tranh của Quân đội Đức Quốc Xã, được lực lượng Waffen-SS tiến hành tại khu vực Baugnez, gần thành phố Malmedy, Bỉ vào ngày 17 tháng 12 năm 1944, trong thời gian diễn ra Trận Ardennes. Lính Waffen-SS thuộc Kampfgruppe Peiper đã hành quyết 84 tù binh chiến tranh Mỹ bị bắt trong một cuộc phục kích. Những tù binh Mỹ sau khi được tập trung tại một cánh đồng trống của một trang trại đã bị giết hại bởi súng máy, nhiều người sống sót sau vụ xả súng cũng bị bắn chết bởi những phát bắn vào đầu ở cự ly gần.

Bên cạnh vụ hành quyết 84 tù binh Mỹ, thuật ngữ "Thảm sát Malmedy" còn được dùng để ám chỉ các vụ thảm sát khác của lính SS đối với thường dân và các đơn vị Đồng Minh khác ở khu làng và thị trấn của Bỉ kể từ vụ Malmedy. Sau chiến tranh, nhiều sĩ quan và lính Waffen-SS đã bị xét xử tại Tòa án Thảm sát Malmedy, từ tháng 5 tới tháng 7 năm 1946. Theo hồ sơ vụ án, tổng cộng 362 tù binh Đồng Minh và ít nhất 111 dân thường Bỉ đã bị hành quyết bởi các đơn vị SS.

Bối cảnh

Đến cuối năm 1944, quân đội Đức liên tục bị đẩy lùi trên nhiều mặt trận, với quân Đồng Minh ở phía Tây và Nam Âu, và Hồng quân Liên Xô ở phía Đông. Vào tháng 9, Hitler đã lên kế hoạch về một phản công cuối cùng và bí mật tập hợp những lực lượng thật mạnh ở cửa ngõ Ardennes. Ardennes là một ván bài chiến lược, liều lĩnh cuối cùng của Hitler, theo đó quân đội Đức dự định chọc thủng phòng tuyến của Hoa Kỳ trong rừng Ardennes, vượt sông Meuse, và sau đó chiếm thành phố Antwerp để phá vỡ và chia cắt, cô lập các đơn vị quân Đồng minh.

Tập đoàn quân Panzer SS số 6 của Đại tướng SS Josef "Sepp" Dietrich sẽ xuyên thủng phòng tuyến của Mỹ giữa khu vực Aachen và Schnee Eifel, chiếm những cây cầu trên sông Meuse ở thành phố Liège. Sư đoàn Panzer SS số 1 "Leibstandarte" (LSSAH), dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng SS Wilhelm Mohnke, được chỉ định làm mũi xung kích, Đại tá Joachim Peiper, một sĩ quan SS giàu thành tích, sẽ dẫn đầu một nhóm Kampfgruppe (Đội chiến đấu Peiper - Kampfgruppe Peiper) làm mũi tấn công chủ lực của LSSAH. Sau khi bộ binh Waffen-SS chọc thủng thành công phòng tuyến của quân Mỹ, Peiper sẽ cho tiến công bằng xe tăng và xe thiết giáp vào Ligneuville, rồi tiếtn về các thị trấn Stavelot, Trois-Ponts, và Werbomon để chiếm những cây cầu bắc quan Sông Meuse. Do các con đường chính được chỉ định sử dụng bởi Sư đoàn Panzer SS số 1, nên các đơn vị thiết giáp của Kampfgruppe Peiper sẽ phải di chuyển trên những con đường cũ và kém chất lượng hơn, vốn không phù hợp với sức nặng của một số xe tăng như Tiger II.

Giao lộ Baugnez

Vào giữa trưa ngày 17 tháng 12 năm 1944, Kampfgruppe Peiper tiến về giao lộ Baugnez, cách thành phố Malmedy hai dặm về phía đông nam. Cùng lúc đó, một đoàn vận tải gồm 26 xe (trong đó có 5 xe cứu thương thuộc Đại đội Quân y 575) thuộc Đại đội B, Tiểu đoàn Trinh sát Pháo Dã chiến 285 được lệnh rời Aachen về Ligneuville và St. Vith để tập hợp với Sư đoàn Thiết giáp số 7 Hoa Kỳ. Chín người đầu tiên trong số 43 người sống sót được phát hiện bởi toán xe của Trung tá David E. Pergrin, chỉ huy Đại đội Công binh 291, lúc 14:30, chỉ hơn một giờ sau cuộc thảm sát. Ít nhất ba thi thể đã bị báng súng trường đập rất mạnh vào đầu Ít nhất ba thi thể bị vỡ hộp sọ

  • Hai thi thể được phát hiện có dấu hiệu sơ cứu trước khi diễn ra cuộc thảm sát Các cuộc điều tra khác cho rằng Waffen-SS đã giết ít hơn số lượng nêu trên, và ước tính khoảng 300 tới 375 lính Mỹ và ít nhất 111 thường dân Bỉ đã bị hành quyết bởi đơn vị Kampfgruppe Peiper.

Nạn nhân

nhỏ|Thi thể của lính Mỹ sau cuộc thảm sát Malmedy. Số 21 là thi thể của Hạ sĩ Halsey J.Miller và số 24 là thi thể của Trung sĩ Tham mưu Donald E. Geisler

Tổng cộng 84 tù binh Mỹ đã bị hành quyết bởi lính Waffen-SS, trong số đó có 73 thành viên thuộc Đại đội B, Tiểu đoàn Trinh sát Pháo Dã chiến 285, sáu lính quân y thuộc Đại đội Quân Y 546 và 575, một kĩ sư công binh thuộc Tiểu đoàn Công binh Hạng nặng 86, ba lính trinh sát của Sư đoàn Thiết giáp số 3 và một thành viên của Tiểu đoàn Pháo Dã chiến 200. Danh sách cụ thể bao gồm:

Đại đội B, Tiểu đoàn Trinh sát Pháo Dã chiến (FAOB) 285

  • Đại úy Roger J. Mills - chỉ huy đại đội
  • Binh nhì Donald L. Bloom
  • Hạ sĩ Joseph A Brozowski
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Samuel P. Burkett
  • Binh nhì Homer S. Carson
  • Binh nhất Robert B. Cohen
  • Kĩ thuật viên hạng 5 John D. Collier
  • Binh nhất Howard C. Desch
  • Binh nhì William J. Dunbar
  • Hạ sĩ Carl B. Fitt
  • Binh nhất Donald P. Flack
  • Binh nhất Carl B. Frey
  • Trung sĩ Tham mưu Donald E. Geisler
  • Hạ sĩ Sylvester V. Herchelroth
  • Thiếu úy Lloyd A. Iames
  • Kĩ thuật viên hạng 4 Selmer H.Leu
  • Hạ sĩ Ralph J. Indelicato
  • Hạ sĩ Raymond E. Lester
  • Trung sĩ Lindt Benjamin
  • Kĩ thuật viên hạng 5 James E Luers
  • Hạ sĩ Lawrence Martin
  • Trung úy John S. Munzinger
  • Binh nhất Thomas W. Oliver
  • Binh nhì Peter R. Phillips
  • Binh nhì Stanley F. Piasecki
  • Hạ sĩ Carl H. Rullman
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Max V. Schwitzgold
  • Kĩ thuật viên hạng 4 Irwin M. Sheets
  • Binh nhì John M. Shingler
  • Binh nhất Carl M. Stevens
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Luke S. Swarts
  • Binh nhất Warren Davis
  • Binh nhì Walter J. Perkowski
  • Kĩ thuật viên hạng 4 John M.Rupp Jr.
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Carl H. Blough
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Paul R. Carr
  • Binh nhất Richard B. Walker
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Charles R. Breon
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Howard W. Laufer
  • Trung sĩ Tham mưu John D. Osborne
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Charles F.Haines
  • Kĩ thuật viên hạng 5 George R. Rosenfeld
  • Binh nhất Frederick Clark
  • Binh nhì James H. Coates
  • Binh nhì John H.Cobbler
  • Trung sĩ Walter A. Franz
  • Thiếu úy Solomon S. Goffman
  • Binh nhì Samuel A. Hallman
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Wilson M. Jones Jr
  • Trung sĩ Oscar R. Jordan
  • Trung sĩ Tham mưu Alfred W. Kinsman
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Alfred Lengyel Jr
  • Trung sĩ Kĩ thuật William T. McGovern
  • Hạ sĩ David T. O'Grady
  • Binh nhì Gilbert R. Pittman
  • Trung úy Perry L. Reardon
  • Hạ sĩ Halsey J.Miller
  • Binh nhì Oscar Saylor
  • Trung sĩ Robert J. Snyder
  • Trung sĩ Alphonse J. Stabulis
  • Kĩ thuật viên hạng 4 George B. Steffy
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Vester H. Wiles
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Thomas F. Watt
  • Kĩ thuật viên hạng 4 Allen M. Lucas
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Robert L. McKinney
  • Hạ sĩ William H. Moore
  • Trung sĩ Kĩ thuật Paul G. Davidson
  • Binh nhất Charles E. Hall
  • Binh nhất David M. Murray
  • Binh nhì Elwood E. Thomas

Tiểu đoàn Công binh Hạng nặng 86

  • Binh nhất John J. Clymire

Tiểu đoàn pháo Dã chiến 200

  • Binh nhất Elmer W. Wald

Đại đội Quân Y 575

  • Trung úy Carl R. Genthner
  • Binh nhất L. M. Burney
  • Binh nhất Paul L. Paden
  • Binh nhất Wayne L. Scott

Đại đội Quân Y 546

  • Binh nhì Keston E. Mullen
  • Kĩ thuật viên hạng 5 Dayton E. Wusterbarth

Đại đội Trinh sát, Trung đoàn Thiết giáp 32, Sư đoàn Thiết giáp số 3

  • Trung úy Thomas E. McDermott
  • Kĩ thuật viên hạng 3 James G. McGee
  • Binh nhì John Klukavy

Trong số 43 người sống sót, có 31 thành viên của Đại đội B, Tiểu đoàn Trinh sát Pháo Dã chiến 285, 5 lính quân y của Đại đội Quân y 575, 6 lính trinh sát của Sư đoàn Thiết giáp số 3 và một hạ sĩ quan Quân cảnh của Tiểu đoàn Quân cảnh 518 (làm nhiệm vụ điều phối giao thông ở giao lộ tại thời điểm bị bắt).

Xét xử

phải|nhỏ|Đại tá SS Joachim Peiper tại Phiên tòa Thảm sát Malmedy

Tòa án Thảm sát Malmedy, diễn ra từ tháng 5 tới tháng 7 năm 1946, xác định rằng toàn bộ các chỉ huy chiến trường phải chịu toàn bộ trách nhiệm về các vụ hành quyết tù binh Mỹ được gây ra bởi lính Waffen-SS, bao gồm Đại tướng SS Josef Dietrich (Chỉ huy Quân đoàn Panzer số 6), Trung tá SS Werner Poetschke và Đại tá SS Joachim Peiper (đều thuộc Kampfgruppe Peiper). Tương tự như vậy, Đại tá Peiper cho rằng mệnh lệnh của thượng cấp đưa ra là không được nhân đạo, không bắt tù binh và thể hiện sự thương hại với thường dân Bỉ. Tòa án đã truy tố và xét xử 43 bản án tử hình, 22 bản án chung thân và 8 án tù ngắn hạn.

Một đài tưởng niệm đã được dựng lên tại giao lộ Baugez. Với thiết kế đơn giản là một bức tường bằng đá với các hòn đá đen xen kẽ, biểu trưng cho những người đã bỏ mạng trong cuộc thảm sát. Có tổng cộng 84 viên đá màu đen cùng với bảng đề câu nói của Tổng thống Abraham Lincoln sau Trận Gettysburg

_Tưởng nhớ những người tù binh Quân đội Hoa Kỳ đã bị lính Đức Quốc Xã sát hại tại khu vực này vào ngày 17 tháng 12 năm 1944_. _We here highly resolve that these dead shall not have died in vain._ _(A. Lincoln)_
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thảm sát Malmedy** là một tội ác chiến tranh của Quân đội Đức Quốc Xã, được lực lượng _Waffen-SS_ tiến hành tại khu vực Baugnez, gần thành phố Malmedy, Bỉ vào ngày 17 tháng 12
Peiper **Joachim Peiper** (30 tháng 1 năm 1915 tại Berlin - 13 tháng 7 năm 1976 tại Traves, Pháp), còn được biết dưới tên Joachim "Jochen" Peiper vì Jochen là tên gọi thân mật cho
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là