✨Thăm dò điện trở

Thăm dò điện trở

Thăm dò điện trở (Resistivity survey), là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, bố trí phát dòng điện vào đất đá và đo hiệu điện thế tại các vị trí thích hợp thông qua hệ thống các điện cực (gọi gọn là Hệ điện cực, Electrode array), từ đó thu được thông tin về phân bố điện trở suất thuần (Ohmic) của môi trường. Từ đó thực hiện phân tích giải đoán để xác định và phân chia đất đá theo thành phần, tính chất và trạng thái của chúng.

Phương pháp được sử dụng cho lập bản đồ địa chất, tìm kiếm dầu khí, khoáng sản, tìm nước ngầm, khảo sát địa chất công trình, địa chất môi trường và tai biến tự nhiên, khảo cổ học, tìm vật chưa nổ (UXO)... trên đất liền và trên biển gần bờ.

Tại Việt Nam, nhiều dạng thực hiện trên mặt đất của phương pháp này được quy chuẩn trong TCVN 9432: 2012. thumb|Diễn giải Đo Thăm dò điện trở

Lịch sử

Các dạng ban đầu của phương pháp điện trở được Conrad Schlumberger đưa ra từ năm 1912.

Ngày nay phương pháp điện chiếm vị trí hàng đầu trong các phương pháp thăm dò về tính phổ biến, rẻ về mức thông tin, đa dạng kiểu đo, và còn đang phát triển kiểu đo mới.

Nội dung phương pháp

Trong đo đạc truyền thống, thăm dò điện trở dùng nguồn điện dòng không đổi (DC), ví dụ các pin hòm (Batt.), phát dòng vào đất qua hai điện cực dòng A và B (có nước gọi là C1 và C2, Current), có Ampe kế đo dòng phát I. Tại điểm cần đo là hai điện cực thế M và N (có nước gọi là P1 và P2, Potential), và MiliVolt kế đo hiệu điện thế ∆U.

Vì dòng điện là không đổi, nên phân bố dòng và điện thế trong đất là quá trình dừng, tức là các phân bố này được xem xét giống như với trường tĩnh điện, khi biểu diễn bằng các đường dòng (Current Flow Lines) và mặt đẳng thế (Equipotential Surfaces) thì có dạng tương tự với đường dòng và mặt đẳng thế của các điện tích điểm, cũng như áp dụng Nguyên lý chồng chập để tính toán các phân bố này.

Gọi các khoảng cách giữa các điện cực là AM, AN, BM, BN, và nửa không gian vô hạn có điện trở suất ρ. Nếu đẩy các điện cực B và N ra cực xa (tốt nhất là ngược hướng nhau), ta sẽ đo được điện thế tại M của nguồn điểm A là U = \rho \frac{I}{2\pi}(\frac{1}{AM}). Đó là hệ cực Pol - Pol hay hệ 2 cực.

Đưa cực N lại gần M để lập ra lưỡng cực (Dipol) MN, thì hiệu điện thế đo được là \Delta U = \rho \frac{I}{2\pi}(\frac{1}{AM}-\frac{1}{AN}). Đó là hệ cực Pol - Dipol hay hệ 3 cực.

Với đủ 4 cực, thì hiệu điện thế đo được là \Delta U = \rho \frac{I}{2\pi}(\frac{1}{AM}-\frac{1}{BM}-\frac{1}{AN}+\frac{1}{BN})

Từ phép đo sẽ tính được điện trở suất :: \rho = k \frac{\Delta U}{I}

trong đó k= \frac{2\pi}{\frac{1}{AM}-\frac{1}{BM}-\frac{1}{AN}+\frac{1}{BN} } cho trường hợp tổng quát, được gọi là hệ số thiết bị (geometric factor). Khi ∆U tính ra Volt, I tính ra Ampere, khoảng cách là mét, thì ρ là Ωm hay Ohm.m.

Trong môi trường thực điện trở suất thay đổi theo cả phương thẳng đứng và phương ngang. Kết quả đo và tính như trên cho ra điện trở suất biểu kiến ρa (tiếng Anh: Apparent Resistivity, trong các văn liệu ở Việt Nam trước đây hay dùng ρK theo tiếng Nga Кажущееся Сопротивление). Các nghiên cứu lý thuyết cho thấy ρa phản ánh trung bình của khối đất đá đến độ sâu trong tầm 1/3 khoảng cách giữa điện cực dòng và thế ngắn nhất. Khoảng cách này thường được gọi là kích thước thiết bị, và độ sâu phản ánh gọi là độ sâu khảo sát. Khi môi trường có tương phản điện trở suất cao thì độ sâu khảo sát giảm hơn ở môi trường ít tương phản.

Từ đây chia ra hai phân nhóm chính của thăm dò điện trở:

  • Giữ nguyên kích thước thiết bị và đo di chuyển dọc tuyến, gọi là đo mặt cắt (Profiling) để khảo sát đến tầm sâu có chủ đích là độ sâu khảo sát. Một chuyến đo mặt cắt thực tế có thể bố trí kết hợp phù hợp để đo với nhiều kích thước thiết bị khác nhau.
  • Giữ nguyên vị trí đo và tăng dần kích thước thiết bị để thu thập thông tin từ nông đến sâu, gọi là đo sâu (Sounding), các văn liệu tiếng Nga gọi là Вертикальное электрическое зондирование (đo sâu điện thẳng đứng) và viết tắt là ВЭЗ.

Ngày nay tại các nước phát triển không thực hiện dạng đo mặt cắt đơn thuần, mà chuyển sang rải nhiều cực và thực hiện dạng hợp của mặt cắt và đo sâu, và đặt tên là ảnh điện trở (Resistivity Imaging).

Các Hệ điện cực thường dùng

  • Hệ Pol - Pol hay hệ 2 cực: Cả hai điện cực B và N đặt xa vô tận so với A và M.
  • Hệ Pol - Dipol hay hệ 3 cực: Điện cực B đặt ở nơi coi là xa vô tận so với các điện cực còn lại.
  • Hệ Wenner: Tất cả bốn điện cực nằm trên đường thẳng (A, M, N, B) cách đều nhau.
  • Hệ Schlumberger: Cả bốn điện cực nằm trên đường thẳng (A, M, N, B), nhưng cặp M và N gần sát nhau còn A và B thì cách xa chúng (MN<<AB).
  • Hệ Dipol - Dipol hay hệ lưỡng cực: Khoảng cách giữa trung điểm của cặp điện cực A, B với M, N lớn hơn độ dài lưỡng cực AB hay MN nhiều lần. Các điện cực không nhất thiết phải nằm trên một đường thẳng.

Các nguồn nhiễu

  • Điện trường thiên nhiên sinh ra do hiệu ứng điện hóa trong đất, giá trị có thể đến ±500 mV. Nó là đối tượng quan sát của thăm dò Điện trường thiên nhiên.
  • Hiện tượng nạp điện của đất đá (Chargeability), là hiện tượng dẫn đến lúc đóng/cắt dòng phát thì mức điện thế không thiết lập được ngay, phải đợi một vài giây quá trình nạp hoàn tất mới đo được điện thế thật. Nó là đối tượng quan sát của thăm dò Điện phân cực kích thích.
  • Điện thế phân cực tại điện cực sinh ra do hiệu ứng điện hóa khi vật kim loại là điện cực đo cắm vào đất. Nó cộng vào điện trường thiên nhiên và hiện ra ở ngõ vào máy đo. Để giảm điện thế này, sử dụng điện cực đồng, hoặc bạch kim (platin - Pt) như trong máy đo của IRIS Instruments (Pháp).
  • Dòng lang thang trong đất, phát sinh do cảm ứng với thay đổi của trường điện từ do tác động của tầng điện ly và các hiện tượng điện từ khác. Nó là đối tượng quan sát của thăm dò điện từ Tellur.
  • Dò điện giữa các dây phát - thu - đất: Phải khắc phục bằng dùng dây có độ cách điện cao.
  • Nguồn cấp dòng phát I không ổn định: Phải khắc phục bằng dùng nguồn phát ổn định, lau sạch các điện cực phát để tiếp địa tốt, hoặc dùng nhiều điện cực đóng thành chùm tại vị trí phát, đổ nước để giảm trở tiếp địa.

Máy đo

Trong thời gian dài từ lúc ra đời đến những năm 1970, nhiều nỗ lực đổ vào việc chế máy đo điện thế có trở kháng (Impedance) ngõ vào cao để không làm nối ngắn mạch đôi cực thu M với N, cũng như có khả năng chống nhiễu, để đo trung thực tín hiệu nhỏ. Nó dẫn đến máy đo dùng khuếch đại Đèn điện tử chân không và nặng tới chục kg, như ЭСК-1 (Liên Xô cũ), DDC-2A (Trung Quốc),... được dùng ở Việt Nam thời đó.

Ngày nay kỹ thuật chế Vôn kế hiện số nhỏ gọn có trở kháng ngõ vào cao ra đời, và đã được vận dụng vào chế tạo máy đo. Đồng thời vận dụng kiểu phát xung đảo cực để loại trừ các nhiễu trường thiên nhiên và phân cực điện cực, cũng như để đo Phân cực kích thích. Khả năng đo điện áp nhỏ được nâng cao, dẫn đến việc giảm dòng và điện áp phát, từ đó giảm chi phí và nguy hiểm trong đo đạc.

Việc phát xung đảo cực có thực chất là sử dụng dòng điện xoay chiều AC (xung vuông). Để kết quả đo tương đương với dùng dòng điện một chiều DC, thì tần số phát phải đủ nhỏ để độ sâu thấm theo hiệu ứng skin lớn hơn kích thước thiết bị vài ba lần.

Mặt cắt ảnh điện

Mặt cắt ảnh điện (Resistivity/Chargeability Imaging) là tên gọi của công nghệ đo điện rải đa cực, ra đời vào những năm 1990. Trong đo Mặt cắt ảnh điện, một dãy điện cực rải cách đều nhau, số lượng từ vài chục đến hàng trăm, được nối bằng các cáp nhiều ruột về hộp chuyển mạch điện tử (Switch Box). Chương trình điều hành đo sẽ căn theo chỉ định hệ cực đo, chọn ra số cực phù hợp, đo quét dọc chặng và từ "kích thước thiết bị" nhỏ đến lớn nhất có thể. Trong thực tế hệ cực Wenner dễ chọn nhất, còn hệ cực Dipol - Dipol cho kích thước thiết bị lớn nhất trên dãy cực đã rải.

thumb|Diễn giải Cuốn chiếu khi đo ảnh điện Cáp nối điện cực được phân đoạn từng nhóm, nhằm phục vụ thi công cuốn chiếu (hay cuốn dọc, Roll-Along) cho tuyến dài. Những đoạn ở xa trạm máy được nối về bằng hai cách:

  • Dùng cáp trung chuyển (hay cáp nối dài), trạm máy cần có đủ lối vào cho chúng.
  • Dùng hộp chuyển mạch quản lý nhóm tại chỗ, gọi là hộp Multinode, và các Multinode nối tiếp với nhau và về trạm máy bằng cáp riêng. Ví dụ Multinode của IRIS Instruments quản lý 16 cực, máy quản lý được 16 Multinode, cho ra tổng số là 256 cực. Đây là cách mềm dẻo, giảm trọng lượng thiết bị, và cho phép cuốn chiếu nhanh bằng cách có nhiều hơn 16 Multinode để rài cực lúc máy đang đo chặng trước.

Đo ảnh độ nạp cần có điện cực bạch kim, và thường đo với hệ cực Wenner hay Schlumberger, vì điện thế phân cực thường rất nhỏ. Nếu đo bằng hệ cực Dipol - Dipol cần dùng dòng phát đủ lớn.

Một số nhà địa vật lý gọi Mặt cắt ảnh điện là Electrical Resistivity Tomography (ERT), trong khi số khác chỉ gọi dạng đo Điện chiếu trường có sử dụng hố khoan là ERT.

Tại Việt Nam Phương pháp ảnh điện được quy chuẩn trong TCVN 9433: 2012. Dạng đo ảnh điện với hệ cực Dipol - Dipol được gọi là Đo sâu lưỡng cực liên tục đều.

Điện chiếu trường

Điện chiếu trường (Electrical Resistivity Tomography, ERT) là phương pháp đo điện có bố trí điện cực trong công trình khoan đào. Cách bố trí điện cực, đo và xử lý số liệu rất đa dạng và là vùng đất đang tìm tòi. Kết quả xử lý là ảnh của điện trở suất hoặc của điện thế quy ước. Nó phục vụ theo dõi các thân quặng hay các đới đất đá có tính chất khác thường quanh công trình khoan đào.

Đáng chú ý nhất là đo Mặt cắt ảnh điện thẳng đứng, tương tự đo trên mặt đất với hệ cực đặt trong hố khoan.

Xử lý phân tích tài liệu

Khi phương pháp mới ra đời, tài liệu đo mặt cắt điện trở được phân tích theo phương pháp các điểm đặc trưng để tìm ra vị trí các ranh giới ngang, và đôi khi thu được điện trở suất lớp nếu đủ dày. Tài liệu đo sâu điện trở thì phân tích bằng so sánh kết quả tại từng điểm với tập đường cong mẫu (Palette) do các nhà lý thuyết biên soạn ra, để chọn cột điện trở suất.

Hiện nay các phần mềm phân tích đo sâu thực hiện xử lý đa điểm. Người sử dụng cần chỉ định tập con các Sounding có mô hình chờ đợi của môi trường tương tự nhau cho một phân tích. Tập con có thể là tuyến hay mảng diện tích, thậm chí tất cả số liệu của vùng. Khi đó chọn ra một điểm có đường cong biểu kiến điển hình, phân tích đơn điểm (1-D Sounding Inversion), sau đó gán mô hình thu được cho các điểm còn lại của tập, rồi phân tích đa điểm (Group Sounding Inversion).

Vì trong phân tích tài liệu thăm dò điện thuộc nhóm đo sâu có nhiều phần giống nhau, nên nhiều hãng phần mềm gộp chung thành "phần mềm phân tích tài liệu thăm dò điện", trong đó mỗi phương pháp thăm dò chiếm 1 modul phân tích, ví dụ phần mềm [http://www.interpex.com/ix1dv3/ix1dv3.htm IX1D] của hãng Interpex (Mỹ).

Tài liệu đo ảnh điện thường được thực hiện bằng phần mềm riêng, ví dụ [http://www.landviser.net/content/res2dinv-2d-geophysical-inversion-software-resistivity-induced-polarization Res2Dinv] hay [http://www.agiusa.com/earthimager3d.shtml AGI EarthImager 3D].

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thăm dò điện trở** (Resistivity survey), là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, bố trí phát dòng điện vào đất đá và đo hiệu điện thế tại các vị trí thích hợp
**Thăm dò Điện Phân cực kích thích**, viết tắt là **PKKT**, (tiếng Anh: _Induced Polarization_, IP) hay **Phân cực cảm ứng** là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, trong đó bố trí
**Thăm dò điện chiếu trường** (Electrical resistivity tomography, ERT) là một phương pháp kỹ thuật thuộc nhóm thăm dò điện trở của Địa vật lý thăm dò, khảo sát hình ảnh cấu trúc dưới bề
thumb|Đo TDEM bằng trực thăng **Thăm dò điện từ miền thời gian** (tiếng Anh: _Time-Domain Electromagnetics_, viết tắt là TDEM; hoặc _Transient Electromagnetics_, viết tắt là TEM) là một phương pháp của Địa vật lý
**Thăm dò Điện trường thiên nhiên** (Self Potential hay Spontaneous Potential, SP) là một phương pháp của _Địa vật lý thăm dò_, bố trí đo điện trường có sẵn trong thiên nhiên bằng các _điện
thumb|Một bộ máy đo Điện từ Tellur **Thăm dò Điện từ Tellur** (Magnetotellurics, MT) là một phương pháp của Địa vật lý, thực hiện quan sát các biến thiên của trường điện và trường từ
**Đo điện trở suất hố khoan** (tiếng Anh: _Resistivity log_) là thành phần chủ chốt của Địa vật lý hố khoan, thực hiện dựa cơ sở lý thuyết của Thăm dò điện trở, với hệ
**Đo điện trở dung dịch hố khoan** (Fluid Resistivity log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò điện trở, với hệ vi cực đo bố trí trong đầu thu ở hố khoan,
**Điện trở** là một linh kiện điện tử thụ động gồm 2 tiếp điểm kết nối, thường được dùng để hạn chế cường độ dòng điện chảy trong mạch, điều chỉnh mức độ tín hiệu,
**Đo sâu điện thẳng đứng**, thường gọi theo viết tắt tiếng Anh là **VES** (_Vertical electrical sounding_) hay theo tiếng Nga là **VEZ** (_Вертикальное электрическое зондирование_), là một phương pháp địa vật lý thuộc nhóm
**Thăm dò từ** (Magnetic Method) là một phương pháp của Địa vật lý, thực hiện đo từ trường Trái Đất để phân định ra phần _dị thường từ_, từ đó xác định phân bố mức
Các **Phương pháp thăm dò phóng xạ** là nhóm các phương pháp của Địa vật lý Thăm dò, thực hiện đo đạc các bức xạ của đất đá, nhằm xác định sự có mặt của
**Hệ điện cực** (Electrode array) là _cấu hình phân bố các điện cực_ được sử dụng để đo điện áp và/hoặc dòng điện, nhằm xác định tính chất điện của môi trường mà hệ điện
**Địa vật lý thăm dò** (Exploration Geophysics), đôi khi gọi là **vật lý địa chất**, là chi nhánh của **địa vật lý ứng dụng** (Applied Geophysics), sử dụng các trường hoặc quá trình vật lý
**Cảm biến nhiệt độ** (**RTD**), còn được gọi là **cảm biến nhiệt độ điện trở** (**RTDs**), được sử dụng để đo nhiệt độ. Rất nhiều thành phần RTD bao gồm một đoạn dây mỏng được
thumb|Một môi trường điện môi cho thấy hiện tượng các điện tích định hướng tạo nên sự phân cực. Một môi trường như thế có thể có tỉ lệ điện thông với điện tích thấp
**Đo điện trường thiên nhiên hố khoan** (Spontaneous potential log) là thành phần của _Địa vật lý hố khoan_, thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò điện trường thiên nhiên, đo điện
**Scandal: Bí mật thảm đỏ** là bộ phim tâm lý, ly kỳ kinh dị Việt Nam của đạo diễn Việt kiều Victor Vũ thực hiện, phim được khởi chiếu ra rạp vào ngày 12 tháng
nhỏ|trái|Sao Mộc nhìn từ tàu thăm dò không gian _[[Cassini-Huygens|Cassini_.]] Việc **Thăm dò Sao Mộc** cho đến nay chỉ được tiến hành qua quan sát cận cảnh bởi các tàu không gian tự động, bắt
**Đo điện phân cực kích thích hố khoan** (Induced polarization log) là thành phần của Địa vật lý hố khoan, thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò điện phân cực kích thích,
**Wide-field Infrared Survey Explorer** (WISE) là một kính viễn vọng không gian thiên văn bước sóng hồng ngoại của NASA được phóng lên vào tháng 12 năm 2009, và được đặt trong chế độ ngủ
**Địa vật lý hố khoan** còn gọi là **địa vật lý lỗ khoan**, **địa vật lý giếng khoan** (tiếng Anh: _Borehole Logging_ hay _Well Logging_), là một lĩnh vực của Địa vật lý thăm dò,
**Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí** là một bệnh viện ở Uông Bí, Quảng Ninh được xây dựng và đưa vào hoạt động vào năm 1981; với sự giúp đỡ, viện trợ
**Phan Thị Mai Phương**, thường được biết đến với nghệ danh **Mai Phương** (14 tháng 1 năm 1985 tại Hải Phòng28 tháng 3 năm 2020), là một nữ diễn viên, người dẫn chương trình kiêm
Trong kỹ thuật điện, **trở kháng** là đại lượng vật lý đặc trưng cho sự cản trở dòng điện của một mạch điện khi có hiệu điện thế đặt vào. Nó thường được ký hiệu
thumb|[[Điện trường của điện tích điểm dương và âm.]] **Điện tích** là một tính chất cơ bản và không đổi của một số hạt hạ nguyên tử (hạt sơ cấp), đặc trưng cho tương tác
❌❌Kem dưỡng trị thâm đỏ với VITAMIN K của SWANSON 59ML(Bạn có thể dùng thử lọ chiết mini 5g (Giá 40k)của sản phẩm. Vui lòng nhắn tin với shop để mua lọ chiết mini)⛔THÀNH PHẦN:Kem
❌❌Kem dưỡng trị thâm đỏ với VITAMIN K của SWANSON 59ML(Bạn có thể dùng thử lọ chiết mini 5g (Giá 40k)của sản phẩm. Vui lòng nhắn tin với shop để mua lọ chiết mini)⛔THÀNH PHẦN:Kem
- Kem mờ sẹo Klirvin là sản phẩm nổi tiếng và là bí quyết làm đẹp cho người Nga và cũng dần trở nên quen thuộc tại Việt Nam khoảng 2 năm trở lại đây,
Chống thấm là một trong những yếu tố quan trọng để bảo vệ công trình khỏi các tác động của nước và thời tiết. Nếu không xử lý chống thấm kịp thời và đúng cách,
Trong điện học, **điện thế** là trường thế vô hướng của điện trường; tức là gradien của điện thế là vectơ ngược hướng và cùng độ lớn với điện trường. Cũng như mọi trường thế
KEM DƯỠNG PHỤC HỒI DA TỔN THƯƠNG, THÂM ĐỎ VỚI VITAMIN KYẾU TỐ THIẾT YẾU ĐỂ CẢI THIỆN VẺ ĐẸP LÀN DAKem phục hồi da tổn thương Vitamin K là sản phẩm chăm sóc da
phải|thumb|Mạch điện được minh họa bằng điện nguồn _Vs_ có nội điện trở _Rs_. thumb|Nội điện trở _Rs_ và phụ tải _Rl_ Phụ tải điện là đại lượng đo bằng tổng công suất tiêu thụ
thumb|Hồ quang điện giữa hai đầu đinh với 3000 Volt. **Hồ quang điện** là quá trình phóng điện tự lực xảy ra trong chất khí ở áp suất thường hoặc áp suất thấp giữa hai
phải|nhỏ|[[Apollo 12 lunar module _Intrepid_ chuẩn bị đáp xuống bề mặt Mặt Trăng. _Ảnh NASA._]] Hành trình **thăm dò Mặt Trăng** thực sự bắt đầu khi Luna 2, một con tàu thăm dò được phóng
Trong kỹ thuật điện **điện áp mạch mở**, **điện áp hở mạch** hay **điện áp không tải** là điện áp được đo tại các cực của nguồn điện áp khi không có tải được kết
**_Trò chơi con mực_** (Hangul: , tiếng Anh: _Squid Game_) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc do Hwang Dong-hyuk viết kịch bản và đạo diễn. Phim được Netflix phát hành trực tuyến vào
Mùa đầu tiên của bộ phim truyền hình Hàn Quốc **Trò chơi con mực** do Hwang Dong-hyuk viết kịch bản và đạo diễn, được Netflix phát hành trực tuyến vào ngày 17 tháng 9 năm
**Lịch sử Ấn Độ độc lập** bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
Một số nhân vật chính và phụ của trong truyện Đây là danh sách các nhận vật trong bộ truyện tranh _Thám tử lừng danh Conan_ được tạo ra bởi tác giả Aoyama Gosho. Các
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
**_Người Nhện: Trở Về Nhà_** (tên gốc tiếng Anh: **_Spider-Man: Homecoming_**) là phim siêu anh hùng năm 2017 của Mỹ dựa trên nhân vật Peter Parker của truyện tranh Marvel. Bộ phim được sản xuất
**_Pokémon: Thám tử Pikachu_** (tên gốc tiếng Anh: **_Pokémon Detective Pikachu_**) là bộ phim bí ẩn của Mỹ năm 2019 do Rob Letterman đạo diễn. Dựa trên thương hiệu _Pokémon_ do Tajiri Satoshi sáng tạo
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Thẩm Đằng** (tiếng Trung: 沈腾, bính âm: Shěn Téng, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1979) sinh tại Tề Tề Cáp Nhĩ, Hắc Long Giang, Trung Quốc là một diễn viên và đạo diễn người
nhỏ|360x360px|Giá trị điện thế màng _v (t)_ đơn vị milivôn (mV) theo mô hình Hodgkin–Huxley, biểu đồ biểu diễn sự chuyển đổi từ trạng thái tĩnh (điện thế nghỉ) sang trạng thái động (điện thế