✨Tám Lê Thanh
Lê Văn Dọn (10 tháng 7 năm 192511 tháng 3 năm 2006), bí danh Tám Lê Thanh, Lê Thanh hay Tám Dọn, là một nhà lãnh đạo quân sự mang quân hàm Trung tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, từng tham gia hai cuộc chiến với Pháp và Mỹ. Xuyên suốt sự nghiệp, ông nắm giữ các chức vụ quan trọng như Trung đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam, Phó Tư lệnh kiêm Chính ủy Phân khu 1, Chính ủy Quân khu Sài Gòn – Gia Định, Ủy viên ban an ninh Trung ương Cục miền Nam kiêm Chỉ huy Trưởng Lực lượng an ninh vũ trang Miền, Phó tư lệnh Công an nhân dân Vũ trang, Phó Tư lệnh Quân khu 7 và Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Ngoài ra, ông cũng từng là thành viên nằm trong ban lãnh đạo lâm thời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam – một tổ chức chính trị chủ chốt trong giai đoạn xung đột tại khu vực này ra đời vào năm 1960.
Xuất thân trong một gia đình nông dân tại xã Phú Thọ Hòa thuộc tỉnh Gia Định, Lê Thanh gia nhập Việt Minh vào năm 1945 và nhanh chóng tham gia lãnh đạo phong trào giành chính quyền từ tay Đế quốc Nhật Bản tại huyện Hóc Môn – Gò Vấp. Hai năm sau, ông là một những nhân vật đặt nền móng xây dựng nên công trình quân sự dưới lòng đất đầu tiên tại khu vực Nam Bộ để làm nơi trú ẩn cho đội quân kháng chiến. Đến thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, ông tiếp tục là một trong những người đầu tiên ở miền Nam đóng góp trực tiếp vào quá trình hình thành địa bàn hoạt động của tổ chức cộng sản, từ nhiệm vụ thành lập lực lượng quân sự cho đến việc kiến tạo nên khu căn cứ Trung ương Cục.
Tháng 5 năm 1945, ông gia nhập đoàn Thanh niên Cứu quốc để chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa. Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Chiến tranh Đông Dương
Tháng 9 năm 1945, khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Nam Bộ, Lê Thanh gia nhập Vệ quốc đoàn và tham gia chiến đấu tại Liên quận Gò Vấp – Hóc Môn – Bà Điểm – Đức Hòa. Xuyên suốt giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1947, trên cương vị Đại đội trưởng Chi đội 12 thuộc Khu 7 nằm dưới sự chỉ huy của Chi đội trưởng Tô Ký, Lê Thanh tham gia phối hợp tác chiến tại các căn cứ Hố Bò, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây (Khu 5 Hóc Môn) và Long Phước Thôn, phía đông Thủ Đức. Trong khoảng thời gian này, ông đã chỉ huy đơn vị đánh bại một trận càn của quân Pháp tại Gia Hẹ – Xóm Mới (thuộc xã Trung Lập, Khu 5 Hóc Môn). Đến năm 1996, địa đạo Phú Thọ Hòa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia của Thành phố Hồ Chí Minh, đây chính là công trình quân sự dưới mặt đất đầu tiên xuất hiện tại khu vực Nam Bộ.
Năm 1952, Pháp mở các cuộc tấn công vào huyện Gò Vấp gây tổn thất nặng nề cho phong trào kháng chiến trong khu vực. Trước tình hình đó, Lê Thanh được bổ nhiệm làm Huyện đội phó Huyện đội Gò Vấp, tập trung củng cố binh lực tại địa phương và duy trì hoạt động du kích. Trên chuyến hành trình kéo dài năm tháng vượt dãy Trường Sơn, mỗi thành viên trong đoàn phải cõng 20kg gạo để ăn dọc đường, không ít lần gặp nguy hiểm vì bom đạn và dịch sốt rét kéo dài. Lê Thanh phụ trách công tác giao liên giữa các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong khoảng thời gian này cho đến hết năm 1954. Năm 1955, khi mâu thuẫn giữa quân đội Bình Xuyên và chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa lên đến cao trào, đặc biệt là sau cuộc đảo chính tấn công vào Dinh Độc Lập và thành Cộng Hòa dẫn đến thất bại, Bình Xuyên cuối cùng buộc phải rút về Rừng Sác. Đến tháng 9 cùng năm, Tổng thống Ngô Đình Diệm bắt đầu phát lệnh tiêu diệt các thế lực giáo phái. Ngày 18 tháng 10 cùng năm, Đại đội 80 (C80) chính thức được thành lập, sau này phát triển thành Đoàn 180 An ninh vũ trang – tiền thân của Phòng Cảnh vệ Miền Nam trực thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh vệ. C80 do ông cùng Ba Thu và Lâm Quốc Đăng chỉ huy, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy. Trong khoảng thời gian từ cuối năm 1956 đến đầu năm 1957, các nhóm quân sự tại Tây Ninh cùng với lực lượng của miền Trung và Tây sát nhập, từ đó thành lập nên đơn vị vũ trang đầu tiên mang tên Tiểu đoàn C500. Lê Thanh – khi đó đang chỉ huy Bộ đội Bình Xuyên, được điều động trở về lãnh đạo đội quân này và vùng chiến khu C. Đầu năm 1958, Xứ ủy ra quyết định thành lập khu miền Đông, bổ nhiệm Lê Thanh cùng Lâm Quốc Đăng giữ chức Phó Chỉ huy lực lượng vũ trang để tiếp tục xây dựng khu căn cứ của Đảng Cộng sản tại miền Nam. Đơn vị này đặt dưới quyền Chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Xuyến với nhiệm vụ mở rộng cơ sở hoạt động trải dài từ biên giới Campuchia đến Long Nguyên, Bến Cát, Bời Lời, Trảng Bàng và Tây Ninh. Ngày 4 tháng 1 cùng năm, Lâm Quốc Đăng và Lê Thanh tiếp tục lãnh đạo lực lượng đối lập giành chiến thắng trước trận tập kích vào Đồn điền cao su Minh Thạnh nhằm mục đích chiếm lấy kho bạc từ khu vực này, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phong trào cách mạng. Đây là khu vực có nhiều trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, trong khi đối phương lại chủ quan do địa thế chưa từng bị động thủ. Theo sự phân công của Bí thư Xứ ủy đương thời Nguyễn Văn Linh, Lê Thanh và Võ Cương (Mười Năng) được bổ nhiệm làm Phó Chỉ huy chiến dịch, trong khi Mai Chí Thọ giữ chức Bí thư Đảng ủy và Nguyễn Hữu Xuyến đảm nhiệm cương vị Tổng chỉ huy, chịu trách nhiệm toàn diện về kết quả trận đánh. Theo kế hoạch, đêm ngày 10 tháng 8 năm 1958, lực lượng tập kích được chia làm ba mũi tấn công vào các vị trí trọng điểm. Sau 30 phút nổ súng, căn cứ tiểu đoàn đã bị kiểm soát. góp phần khai thông liên lạc giữa căn cứ Đông và Tây, tạo điều kiện thuận lợi cho Xứ ủy di chuyển về khu vực này nhằm mục đích chỉ đạo các hoạt động kháng chiến.
Trước sức ép từ nền Đệ Nhất Cộng hòa, Xứ ủy tiếp tục ra quyết định tập trung lực lượng tiến hành một cuộc tấn công lớn làm đòn bẩy thúc đẩy phong trào khởi nghĩa toàn miền Nam. Năm 1960, Lê Thanh được điều động làm Phó ban Quân sự Miền và tham gia Ban chỉ huy trận đánh Tua Hai cùng với Tám Kiến Quốc, Tám Cao và Mười Năng. Đêm 28 Tết rạng sáng ngày 26 tháng 1, lệnh tiến công căn cứ bắt đầu, Phía Việt Nam nhận định sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng mở đầu cho cao trào Đồng khởi ở Nam Bộ. Địa điểm diễn ra cuộc chiến sau này đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 23 tháng 7 năm 1993.
1960–1974: Nắm giữ chức vụ then chốt
thumb|upright|Lê Thanh và [[Trần Bạch Đằng (đứng giữa từ trái sang) tại khu căn cứ Xứ ủy ở Tây Ninh vào năm 1961.]] Ngày 20 tháng 12 năm 1960, với tư cách là gương mặt đại diện cho lực lượng vũ trang giải phóng, Lê Thanh tham dự sự kiện thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến ngày 15 tháng 12 năm 1961, cùng với Phùng Văn Cung và Nguyễn Văn Linh, ông được tổ chức công khai giới thiệu là những nhân vật chủ chốt nằm trong ban lãnh đạo lâm thời của mặt trận. Trong giai đoạn 1961–1966, ông giữ chức vụ Trung đoàn phó rồi đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn chủ lực Miền, chiến đấu chống lại chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Cũng trong năm 1966, ông được điều động giữ chức Phó Tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn – Gia Định kiêm Chỉ huy trưởng liên quận Gò Vấp – Hóc Môn. Quân khu Sài Gòn – Gia Định và Quân khu 7 được tổ chức lại thành sáu phân khu trọng điểm. Phân khu 1 ban đầu do Trần Đình Xu làm Tư lệnh và Lê Thanh giữ chức Phó Tư lệnh. Khi vượt sông Vàm Cỏ Đông, đoàn người gồm bốn thuyền chia làm hai nhóm, ông cho biết: "Đến Vàm Trảng, nơi có hai chiếc thuyền lớn, mỗi người đi riêng một chiếc. Nguyên tắc không cho hai thuyền qua sông cùng lúc nên tôi bảo anh Đạo chờ khi nào thấy thuyền tôi qua hai phần ba sông thì anh bắt đầu qua". Tuy nhiên trên thực tế là chuyến đi này đã bị phát hiện và một trận giao chiến không cân sức diễn ra sau đó. Theo báo cáo của Hải quân Hoa Kỳ, lực lượng tuần tra đã "phát hiện và nổ súng" vào chiếc thuyền tam bản đầu tiên. Sau khi bị tấn công bởi hỏa lực từ hai bờ sông, họ tiếp tục "phát hiện và bắn hạ" thêm ba thuyền còn lại. Trận giao tranh khiến bốn thành viên quân đội Mỹ bị thương (một nghiêm trọng), trong khi ghi nhận thương vong từ phía đối phương bao gồm "bốn Việt Cộng bị giết và năm tên nữa có thể đã bị tiêu diệt". Bản ghi chép của quân đội Hoa Kỳ được con gái ông Đạo là Minh Vân trích lục tại Trung tâm lưu trữ Việt Nam Sam Johnson thuộc Đại học Công nghệ Texas cùng nhiều cuộc gặp gỡ nhân chứng trước đó xác nhận rằng con thuyền chở Lê Thanh chính là chiếc duy nhất sống sót thoát được lên bờ, toàn bộ 17 thành viên của quân kháng chiến trên ba chiếc xuồng còn lại đều mất mạng giữa trận hỏa lực. Theo chỉ đạo từ bí thư Trung ương cục Nguyễn Văn Linh, Lê Thanh được bổ nhiệm làm Chính ủy Phân khu, trực tiếp chỉ huy hai cuộc tìm kiếm dấu vết thi thể của ông Đạo nhưng đều không mang lại kết quả. Không có chi tiết nào trong bản tường thuật cho thấy lực lượng Hoa Kỳ đã biết trước sẽ có quân cộng sản vượt sông trong đêm. Giám đốc Trung tâm lưu trữ Steve Maxner nhận định nếu tình báo Mỹ nghi ngờ có một người thuộc cấp bậc cao của lực lượng Bắc Việt xuất hiện trong khu vực, họ sẽ ra lệnh bắt tù binh nhằm gây áp lực thay vì giết chết toàn bộ đối phương. Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng trong hàng ngũ cách mạng có thành phần phản gián đã cố tình dẫn lối đơn vị băng xuyên rừng đến tuyến đường tuần tra của lính Mỹ.
Sau sự kiện sống sót trong trận phục kích, đến tháng 4 năm 1972, Lê Thanh tiếp tục giữ chức Phó Chính ủy khi Quân khu Sài Gòn – Gia Định tái lập, một năm sau thì ông kế nhiệm Tám Cao trở thành Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Chính ủy của khu vực quân sự này. Tháng 8 năm 1974, ông được điều về Trung ương Cục, nắm giữ chức vụ Ủy viên Ban An ninh kiêm Chỉ huy trưởng lực lượng an ninh vũ trang Miền. Đầu năm 1975, sau khi phe cộng sản giành thắng lợi trong chiến dịch Phước Long, Trung ương Cục tiếp tục ra chỉ thị mở rộng khu vực hoạt động, Lê Thanh được giao nhiệm vụ giải quyết đồn Mỏ Công trên đường 22 – tuyến phòng thủ của quân đội Sài Gòn từ Xa Mát đến thị xã Tây Ninh. Trong khu vực này có một đại đội bảo an, một chốt cảnh sát và ba chốt dẫn vệ, sau khi trinh sát và nhận định tình hình, ông đề xuất phương thức tấn công cường tập. Phối hợp cùng Thiếu tướng Nguyễn Văn Bên, Lê Thanh chỉ huy trận đánh và đến cuối tháng 3 năm 1975, toàn bộ hệ thống năm cứ điểm của đồn bốt này đã bị các đơn vị tác chiến giành quyền kiểm soát. ông được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn 180 An ninh vũ trang bảo vệ Ban Thường vụ Trung ương Cục, Mặt trận Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiến về Sài Gòn. Ngày 20 tháng 4 năm 1975, Lê Thanh công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy hành quân và tác chiến, sáu ngày sau, ông cùng với Nguyễn Văn Bên chủ trương vận động tinh thần các đơn vị lên đường.
Thời kỳ hậu 1975
Năm 1980, ông được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân khu 7 và bảy năm sau thì giữ chức vụ Phó Tư lệnh Bộ đội biên phòng. Công cuộc tái thiết của phòng ban kết thúc gần một thập kỷ sau đó. Đến ngày 11 tháng 3 năm 2006, Lê Thanh qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra thông cáo truyền thông cho biết Trung tướng Lê Thanh cùng với Thượng úy Biệt động Sài Gòn Mai Hồng Quế được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký quyết định số 771/QĐ-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì "đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước". Lễ trao tặng được tổ chức vào ngày 5 tháng 6 năm 2015 – đúng 104 năm sau sự kiện Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây thực hiện công cuộc giải phóng Việt Nam khỏi thuộc địa của Pháp.