✨Shinjitai

Shinjitai

là một ít dạng đơn giản hoá Kanji (Hán tự) được sử dụng và chính thức trở thành tiêu chuẩn ở Nhật Bản kể từ khi danh sách được ban hành vào năm 1946. Một số Kanji mới trong Shinjitai giống với chữ Hán giản thể, nhưng nói chung Shinjitai chỉ sửa đổi và giản lược trong một phạm vi giới hạn.

Shinjitai được tạo ra bằng cách giảm số lượng nét trong hoặc , vốn là Kanji không đơn giản hóa (thường tương tự chữ Phồn Thể), sự đơn giản hóa này trải qua một quá trình (tương tự như quá trình đơn giản hóa của tiếng Trung giản thể nhưng không toàn diện bằng). Phương pháp phổ biến là thay thế các bộ có cùng âm On ( - Âm Phù) bằng một nét chữ khác, hoặc bằng bộ khác đơn giản hơn nhưng đọc giống nhau.

Đã có một vài giai đoạn đơn giản hóa được thực hiện kể từ những năm 1950, nhưng những thay đổi duy nhất trở thành chính thức là những thay đổi trong Danh sách Jōyō Kanji vào năm 1981 và 2010.

Lịch sử

Do sự phức tạp của Kanji, nhiều chữ viết tay được sử dụng rộng rãi. Quá trình cải cách chữ Hán ở Nhật Bản diễn ra vào thời hậu chiến, sau đó trở thành ký tự chính thức trong các cuộc cải cách sau chiến tranh.

Phần lớn các ký tự trong tiêu chuẩn mới có ít nét hơn các mẫu cũ, mặc dù trong một số trường hợp, chúng có cùng số lượng và trong một số trường hợp khác, chúng có thêm một nét. Đơn giản hóa triệt để nhất là chữ 廳 → 庁 (Hán Việt: Sảnh), khi bên trong thay toàn bộ chữ Thính 聽 bằng chữ Đinh 丁, loại bỏ 20 nét. Có thể tra cứu danh sách đầy đủ về số nét giảm tại: [http://jgrammar.life.coocan.jp/ja/kanji001.htm#ryakuji []

Các kiểu đơn giản hóa Kanji không chính thức

Tiêu chuẩn Công nghiệp Nhật Bản (JIS) có nhiều Kanji được đơn giản hóa theo mô hình Shinjitai, chẳng hạn như (dạng đơn giản của ), nhiều chữ trong số này đã có trong bộ Unicode, nhưng không có trong hầu hết các bộ Kanji.

Kiểu Ryakuji (略字, Lược Tự) để sử dụng chữ viết tay, chẳng hạn như chữ viết tắt của (tiếng Trung giản thể: 门) và (có trong Unicode dưới dạng 㐧) nhưng không phải là một phần của Shinjitai và do đó không phải là kiểu chữ chính thức.

Phương pháp đơn giản hóa Kanji

Áp dụng các hình thức thảo thư

Chữ viết thảo (còn được gọi là chữ viết cỏ) và các dạng bán chữ thảo của kanji được sử dụng như Shinjitai. Ví dụ:

Tiêu chuẩn hóa và thống nhất các dạng ký tự

Các ký tự trong đó có hai hoặc nhiều biến thể được tiêu chuẩn hóa dưới một hình thức. Bộ 辶 trước đây được in bằng hai dấu chấm (như trong hyōgaij i) nhưng được viết bằng một (như trong ), vì vậy dạng viết với một dấu chấm đã trở thành tiêu chuẩn. Phần trên của các ký tự vàtrước đây được in thành 八 và viết 丷, nhưng dạng in cũ vẫn được thấy trong các ký tự hyōgaiji và .

Thay đổi các chữ dựa vào âm On

Các bộ chữ được thay thế ở phần các phần ngữ âm bằng các từ đồng âm có ít nét hơn. Ví dụ, đã được đổi thành , bởi vì và là từ đồng âm.

Chấp nhận một số ký tự biến thể

Trong một số trường hợp, một ký tự tiêu chuẩn đã được thay thế bằng một ký tự biến thể, ví dụ: và , thay thế và tương ứng. Trong cả hai trường hợp, ký tự biến thể có một ý nghĩa và cách đọc khác nhau nhưng vẫn được chấp nhận do số lượng nét của nó ít hơn.

Loại bỏ các thành phần

Một số Kanji đã được đơn giản hóa bằng cách loại bỏ toàn bộ thành phần. Ví dụ:

  • một phần của đã bị loại bỏ để trở thành

Thêm một nét vẽ

Một số Kanji đã được thêm nét vẽ để làm cho bố cục đều đặn hơn:

  • (, →)
  •  () – đổi nét dưới
  •  () – đổi nét trên thành
  • – trước đây nó là nét nhỏ ở phía trên bên trái của chữ 十, là một phần của nét dọc trong chữ 田, nhưng bây giờ nó là một nét riêng biệt.

Sự khác biệt trong việc đơn giản hóa giữa tiếng Trung Giản Thể và tiếng Nhật

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một ít dạng đơn giản hoá Kanji (Hán tự) được sử dụng và chính thức trở thành tiêu chuẩn ở Nhật Bản kể từ khi danh sách được ban hành vào năm 1946. Một
, còn gọi là **chữ Hán tiếng Nhật**, là những chữ Hán được dùng để viết tiếng Nhật. ## Tên gọi Từ _kanji_ bắt nguồn từ từ tiếng Nhật 漢字 (chuyển tự La-tinh:
**Hanja** hay **Hancha** () là tên gọi trong tiếng Triều Tiên để chỉ chữ Hán. Đặc biệt hơn, nó chỉ những chữ Hán được vay mượn từ tiếng Trung Quốc và được sử dụng rộng
là tiền tệ chính thức của Nhật Bản. Đây là loại tiền được giao dịch nhiều thứ ba trên thị trường ngoại hối sau đồng đô la Mỹ và đồng euro. Nó cũng được sử
**Yokosuka MXY-7 _Ohka**_, (櫻花 (Shinjitai: 桜花) "Hoa anh đào" Hebon-shiki transcription **Ōka**,) là một loại bom chống tàu chiến được điều khiển bởi các phi công cảm tử _Thần phong_, được Nhật Bản chế tạo
**Sự kiện Phụng Thiên** hay còn gọi là **sự kiện Mãn Châu** hoặc **sự cố 9.18 (theo cách người Trung Quốc gọi)** là một sự kiện cờ giả do quân đội Nhật Bản sắp đặt
[[Adachi Kenzō, Osachi Hamaguchi, Toshio Shimada, Baron Kato, Kataoka Naoharu, và Ema Koigumi năm 1916 |thumb]] thumb|Nỗ lực ám sát Hamaguchi Osachi bên trong ga Tokyo, ngày 14 tháng 11 năm 1930 **Hamaguchi Osachi** (Kyūjitai:
**"Datsu-A Ron"** hay "**Thoát Á Luận**" (Kyūjitai: , Shinjitai: ) là một bài xã luận được đăng trên tờ báo _Jiji Shimpo_ của Nhật Bản vào ngày 16 tháng 3 năm 1885 với lập luận