✨Shimon Peres

Shimon Peres

Shimon Peres (; ; tên khai sinh Szymon Perski; 2 tháng 8 năm 1923 – 28 tháng 9 năm 2016) là Tổng thống thứ 9 của Nhà nước Israel (2007 – 2014). Peres từng hai lần giữ chức Thủ tướng Israel và một lần là Quyền Thủ tướng, suốt thập niên 70 đến thập niên 90, và từng là thành viên của 12 nội các trong sự nghiệp chính trị kéo dài hơn 66 năm. Peres được bầu vào Knesset tháng 11 năm 1959 và, ngoại trừ một thời gian gián đoạn ba tháng đầu năm 2006, phục vụ liên tục cho tới năm 2007, khi ông trở thành Tổng thống. Tháng 11 năm 2008 ông đã được Nữ hoàng Elizabeth II tặng danh hiệu Hiệp sĩ danh dự.

Ra đời tại Wiszniewo, ở Ba Lan (hiện ở Belarus) năm 1923, Peres đã cùng gia đình chuyển tới lãnh thổ Palestine Ủy trị năm 1934. Ông đã giữ nhiều chức vụ ngoại giao và quân sự trong và trực tiếp sau cuộc chiến tranh giành độc lập của Israel. Chức vụ cao cấp đầu tiên trong chính phủ của ông là Thứ trưởng Quốc phòng năm 1952, và Bộ trưởng Quốc phòng năm 1953 tới năm 1959. Trong sự nghiệp của mình, ông đã đại diện cho năm đảng chính trị trong Knesset: Mapai, Rafi, Liên kết, Công Đảng và Kadima, và đã từng lãnh đạo Liên kết và Công Đảng. Peres đã giành Giải Nobel Hoà bình năm 1994 cùng với Yitzhak Rabin và Yasser Arafat vì những cuộc đàm phán hoà bình ông tham gia với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao Israel, dẫn tới Hiệp định Oslo.

Những năm đầu tiên

Peres sinh ngày 2 tháng 8 năm 1923 tại Wiszniewo, Ba Lan (nay là Višnieva, Belarus), con của Yitzhak (1896-1962) và Sara (sinh năm 1905 tên khi sinh Meltzer) Perski. Gia đình này nói tiếng Hebrew, Yiddish và tiếng Nga ở nhà, và Peres đã học tiếng Ba Lan ở trường. Hiện ông nói tiếng Anh và tiếng Pháp ngoài tiếng Hebrew. Cha ông là một nhà buôn gỗ, sau này mở rộng sang cả các mặt hàng khác còn mẹ ông là một nhân viên thư viện. Peres có một người em trai, Gershon.

Ông của Peres, Rabbi Zvi Meltzer, một người cháu của Rabbi Chaim Volozhin, có ảnh hưởng lớn tới cuộc đời ông. Trong một cuộc phỏng vấn, Peres đã nói: "Khi còn trẻ, tôi lớn lên trong ngôi nhà của ông tôi… chính ông đã dạy dỗ tôi… ông tôi đã dạy tôi Talmud. Nó không dễ dàng như vẻ ngoài của nó đâu. Chúng tôi không phải là một gia đình theo đạo. Cha mẹ tôi không phải là tín đồ Chính thống nhưng tôi là Haredi. Ở một thời điểm, tôi đã nghe cha mẹ mình nghe đài về Sabbath và tôi đã phá huỷ nó."

Ông học tại The New School ở Greenwich Village, Thành phố New York.

Ủy trị Anh

Năm 1932, cha Peres di cư tới Palestine và định cư tại Tel Aviv. Gia đình đi theo ông năm 1934. Peres có 8 cháu và hai chắt. Sonya Peres không thể tham gia lễ nhậm chức của Shimon vì sức khoẻ kém. Peres là một người cháu của nữ diễn viên Lauren Bacall (tên khi sinh Betty Joan Perski).

Quân đội và Quốc phòng

nhỏ|Shimon Peres nói chuyện với [[Donald Rumsfeld. Đại sứ Israel tại Hoa Kỳ David Ivry (ở giữa) gia nhập cuộc trò chuyện với họ.]]

Năm 1947, Peres gia nhập Haganah, tiền thân của Các lực lượng phòng vệ Israel. David Ben-Gurion phân công ông chịu trách nhiệm về nhân sự và mua bán vũ khí. Năm 1952, ông được chỉ định làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, và vào năm 1953, ở độ tuổi 29, trở thành Bộ trưởng trẻ nhất của Bộ Quốc phòng. Ông đã tham gia vào những vụ mua bán vũ khí và thành lập các liên minh chiến lược có vai trò quan trọng với Nhà nước Israel. Nhờ sự trung gian của Peres, Israel đã mua được loại máy bay phản lực chiến đấu Dassault Mirage III hiện đại của Pháp, thành lập lò phản ứng hạt nhân Dimona và tham gia một thoả thuận ba bên với Pháp và Anh Quốc để dẫn tới cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956.

Sự nghiệp chính trị

Những bước đầu tiên trong chính trị

Peres lần đầu được bầu vào Knesset trong cuộc bầu cử năm 1959, như một thành viên của đảng Mapai. Ông được trao vai trò Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, chức vụ ông đảm nhiệm tới năm 1965. Peres và Dayan đã rời Mapai với David Ben-Gurion để thành lập một đảng mới, Rafi giải hoà với Mapai và gia nhập Liên kết (một liên minh cánh tả) năm 1968.

Các cột mốc chính trị trong thập niên 1970

Năm 1969, Peres được chỉ định làm Bộ trưởng Thu hút Người nhập cư và vào năm 1970 trở thành Bộ trưởng Giao thông và Viễn thông. Năm 1974, sau một giai đoạn làm Bộ trưởng Thông tin, ông được chỉ định làm Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ của Yitzhak Rabin, và trở thành đối thủ hàng đầu của Rabin cho chức vụ thủ tướng sau khi Golda Meir từ chức sau cuộc Chiến tranh Yom Kippur. Trong thời gian này, Peres tiếp tục đối đầu với Rabin để giành chức chủ tịch đảng, nhưng vào năm 1977, ông một lần nữa thua cuộc trước Rabin trong cuộc bầu cử của đảng.

Peres kế vị Rabin trở thành lãnh đạo đảng trước cuộc bầu cử năm 1977 khi Rabin rút lui trước một vụ scandal ngoại tệ liên quan tới vợ ông. Bởi Rabin không thể từ chức một cách hợp pháp khỏi chính phủ chuyển tiếp, ông vẫn chính thức là Thủ tướng, trong khi Peres một cách không chính thức trở thành Quyền Thủ tướng. Peres đã lãnh đạo Liên kết tới thất bại bầu cử đầu tiên của họ, khi đảng Likud dưới sự lãnh đạo của Menachem Begin giành đủ số ghế để thành lập một liên minh trục xuất cánh tả. Sau chỉ một tháng cầm quyền, Peres nắm vai trò lãnh đạo đảng đối lập.

Các cột mốc chính trị thập niên 1980

Sau một kế hoạch quay trở lại của Rabin năm 1980 Peres đã lãnh đạo đảng tới một thất bại bầu cử sít sao khác trong cuộc bầu cử năm 1981.

Năm 1984, Liên kết giành nhiều ghế hơn bất kỳ đảng nào khác nhưng không tập hợp được đa số 61 ghế cần thiết để thành lập một liên minh cánh tả. Vì thế, Liên kết và Likud đồng ý với một sự sắp xếp "thay đổi" bất thường theo đó Peres sẽ là Thủ tướng và lãnh đạo Likud Yitzhak Shamir sẽ là Bộ trưởng Ngoại giao.

Một điểm nhấn ở thời kỳ làm thủ tướng này là chuyến đi tới Maroc để bàn bạc với Vua Hassan II.

Luân phiên với Shamir

Sau hai năm, Peres và Shamir thay đổi vị trí. Năm 1986 ông trở thành Bộ trưởng Ngoại giao. Năm 1988, Liên kết dưới sự lãnh đạo của Peres chịu một thất bại sít sao khác. Ông đã đồng ý tái lập liên minh với Likud, lần này nhường chức thủ tướng cả nhiệm kỳ cho Shamir. Trong chính phủ thống nhất quốc gia giai đoạn 1988-1990, Peres làm Phó thủ tướng và Bộ trưởng Tài chính. Ông và Liên kết cuối cùng rời chính phủ năm 1990, sau "trò bịp bợm bẩn thỉu" – Một âm mưu bất thành để hình thành một chính phủ suýt soát dựa trên một liên minh của Liên kết, các phái cánh tả nhỏ và các đảng chính thống cực đoan.

Các cột mốc chính trị thập niên 1990

Từ năm 1990, Peres lãnh đạo phe đối lập trong Knesset, cho tới đầu năm 1992, ông bị đánh bại trong cuộc bầu cử sơ bộ đầu tiên của Công Đảng mới của Israel (đã được thành lập sau khi củng cố Liên kết vào một đảng thống nhất duy nhất) bởi Yitzhak Rabin, người ông đã thay thế mười lăm năm trước đó.

Tuy nhiên, Peres vẫn hoạt động chính trị tích cực, làm Bộ trưởng Ngoại giao của Rabin từ năm 1992 và không có sự giám sát của Rabin, bắt đầu những cuộc đàm phán bất hợp pháp bí mật với tổ chức PLO của Yasser Arafat. Khi Rabin phát hiện, ông để các cuộc đàm phán tiếp tục. Các cuộc đàm phán đã dẫn tới Hiệp định Oslo, sẽ mang lại cho Peres, Rabin và Arafat Giải Nobel Hoà bình.

Sau vụ ám sát Rabin năm 1995, Peres một lần nữa trở thành Thủ tướng. Trong nhiệm kỳ này, Peres đã khuyến khích sử dụng Internet tại Israel và tạo lập website đầu tiên của thủ tướng Israel. Tuy nhiên, ông lại bị đánh bại sít sao bởi Benjamin Netanyahu trong cuộc bầu cử thủ tướng trực tiếp đầu tiên năm 1996.

Năm 1997 ông không tìm cách tái tranh cử chức lãnh đạo Công Đảng và bị thay thế bởi Ehud Barak. Barak cự tuyệt nỗ lực của Peres nhằm lấy lại chức vụ chủ tịch đảng và ngay khi thành lập một chính phủ năm 1999 đã chỉ định Peres giữ một chức nhỏ là Bộ trưởng Hợp tác Vùng. Peres ít đóng vai trò trong chính phủ của Barak.

Các cột mốc chính trị thập niên 2000

Năm 2000 Peres chạy đua cho một nhiệm kỳ 7 năm vào chức vụ Tổng thống, một chức vụ nguyên thủ quốc gia mang tính nghi lễ, thường cho phép lựa chọn Thủ tướng. Nếu ông thắng, như mọi người dự đoán, ông sẽ trở thành cựu thủ tướng đầu tiên được bầu làm Tổng thống. Tuy nhiên, ông thua cuộc trước ứng cử viên đảng Likud Moshe Katsav.

Sau thất bại của Ehud Barak trước Ariel Sharon trong cuộc bầu cử thủ tướng trực tiếp năm 2001, Peres một lần nữa quay trở lại. Ông lãnh đạo Công Đảng tham gia một chính phủ thống nhất với đảng Likud của Sharon và giành được ghế Bộ trưởng Ngoại giao. Chức vụ lãnh đạo đảng chính thức được chuyển cho Binyamin Ben-Eliezer, và vào năm 2002 cho thị trưởng Haifa, Amram Mitzna. Peres đã bị cánh tả chỉ trích nhiều vì bám riết lấy chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao của mình trong một chính phủ không được coi là thúc đẩy tiến trình hoà bình, dù ông có lập trường ủng hộ hoà bình. Ông chỉ rời chức vụ khi Công Đảng rút lui trước cuộc bầu cử năm 2003. Sau khi đảng dưới sự lãnh đạo của Mitzna chịu một thất bại bầu cử nặng nề, Peres một lần nữa nổi lên như một nhà lãnh đạo lâm thời. Ông lãnh đạo đảng vào một liên minh với Sharon một lần nữa vào cuối năm 2004 khi ông này ủng hộ việc "rút lui" khỏi Gaza đệ trình một chương trình ngoại giao mà Công Đảng có thể ủng hộ.

nhỏ|Shimon Peres (2007)

Peres giành chức chủ tịch Công Đảng năm 2005, trước cuộc bầu cử năm 2006. Với tư cách lãnh đạo đảng, Peres muốn hoãn cuộc bầu cử càng lâu càng tốt. Ông tuyên bố rằng một cuộc bầu cử sớm sẽ huỷ hoại cả kế hoạch rút quân khỏi Gaza vào tháng 9 năm 2005 và vị thế của Công Đảng trong một chính phủ đoàn kết quốc gia với Sharon. Tuy nhiên, đa số đòi một ngày sớm hơn, bởi các thành viên trẻ trong đảng, trong số đó có Ophir Pines-Paz và Isaac Herzog, đã vượt qua các nhà lãnh đạo cũ như Binyamin Ben-Eliezer và Haim Ramon, trong cuộc bỏ phiếu trong đảng để phân chia các chức vụ trong chính phủ. Cuối cùng hoá ra cuộc bầu cử không thể được tổ chức vào tháng 6, như đã lập kế hoạch, khi một scandal nổ ra về sự gian lận có thể có trong việc đăng ký thành viên. Cuộc điều tra vụ việc này đã làm trì hoãn cuộc bầu cử tới tận ngày 9 tháng 11 năm 2005.

Trước và sau sự chậm trễ, Peres liên tục dẫn đầu trong các cuộc thăm dò, bác bỏ những dự đoán rằng những đối thủ sẽ vượt qua ông. Những trao đổi nhỏ của ông với các đối thủ bắt đầu khi cựu thủ tướng Barak bắt đầu ủng hỗ việc tổ chức những cuộc bầu cử sơ bộ đầu năm đó, bởi Amir Peretz và Haim Ramon, hai thành viên nghị viện kiên quyết chống Barak, muốn ủng hộ Peres với bất kỳ giá nào để đánh bại Barak. Trong một sự thay đổi kỳ cục của các sự kiện, Peretz nhanh chóng tuyên bố tư cách ứng viên của mình, một hành động bị Peres coi là sự phản bội lớn nhất.

Dù Peres tiếp tục có những lời tranh cãi bẩn thỉu với Barak trên báo chí, mối thù địch của ông với Peretz nhanh chóng vượt qua nó, đặc biệt khi Barak rút lui khỏi cuộc đua đầu tháng 10. Một trong những cáo buộc chính của Peretz chống lại Peres là ông đã không chú trọng các vấn đề kinh tế xã hội khi còn ở trong chính phủ Sharon, và đã không hoàn thành cam kết của mình rằng Công ĐẢng đã gia nhập liên minh với ý định duy nhất là giám sát sự rút quân khỏi Gaza. Peres thua trong cuộc bầu cử lãnh đạo đảng với 40% so với 42.4% của Peretz.

Gia nhập Kadima

Ngày 30 tháng 11 năm 2005 Peres thông báo rằng ông đã rời Công Đảng để ủng hộ Ariel Sharon và đảng Kadima mới của ông này. Ngay sau cơn đột quỵ của Sharon đã có dự đoán rằng Peres có thể sẽ lãnh vai trò lãnh đạo đảng, nhưng hầu hết các lãnh đạo cao cấp của Kadima, từng là các thành viên cũ của Likud và tuyên bố ủng hộ Ehud Olmert làm người kế vị Sharon.

Công Đảng được thông báo là đã tìm cách lôi kéo Peres trở lại. Tuy nhiên, Peres đã thông báo rằng ông ủng hộ Olmert và sẽ ở lại với Kadima. Các thông báo truyền thông cho rằng Ehud Olmert đã đề nghị trao vị trí thứ hai trong Kadima cho Peres, nhưng các vị trí không quan trọng trong nội các cho những người được cho là đã được cho là đề nghị với Tzipi Livni. Peres trước đó đã thông báo ý định không tham gia cuộc bầu cử tháng 3. Sau thắng lợi của Kadima trong cuộc bầu cử này, Peres được trao vai trò Phó thủ tướng và Bộ trưởng Phát triển Negev, Galilee và Kinh tế Vùng.

Tổng thống Israel

nhỏ|Shimon Peres tháng 12 năm 2007 nói về di sản của mình và liệu có tìm kiếm một nhiệm kỳ thứ hai không. nhỏ|trái|Peres và [[Condoleezza Rice tại Phủ Tổng thống ở Jerusalem năm 2007]]

Ngày 13 tháng 6 năm 2007, Peres được Knesset bầu làm Tổng thống Nhà nước Israel. 58 trong 120 thành viên Knesset bỏ phiếu cho ông ở vòng một (trong khi 38 bỏ phiếu cho Reuven Rivlin, và 21 cho Colette Avital). Các đối thủ của ông sau đó ủng hộ Peres ở vòng hai và 86 thành viên Knesset bỏ phiếu cho ông, trong khi 23 phản đối. Ông đã từ chức thành viên Knesset cùng trong ngày hôm ấy, nơi ông đã là một thành viên từ năm 1959 (ngoại trừ trong một giai đoạn ba tháng đầu năm 2006), thời gian phục vụ lâu nhất trong lịch sử chính trị Israel. Peres tuyên thệ nhậm chức Tổng thống ngày 15 tháng 7 năm 2007.

Các quan điểm chính trị

Peres một thời từng bị coi là một chính trị gia diều hâu. Ông là một người được bảo trợ của Ben-Gurion và Dayan và từng là một người ủng hộ những người định cư ở Bờ Tây ngay từ thập kỷ 1970. Tuy nhiên, sau khi trở thành lãnh đạo đảng quan điểm của ông đã phát triển. Gần đây hơn ông đã được coi là một chính khách bồ câu, và là một người ủng hộ mạnh mẽ cho quan điểm hoà bình thông qua hợp tác kinh tế. Tuy vẫn phản đối, như nhiều lãnh đạo Israel chính thống trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, việc đàm phán với PLO, ông đã tách biệt khỏi những người định cư và nói về sự cần thiết của "thoả hiệp lãnh thổ" với Bờ Tây và Dải Gaza. Trong một thời gian ông đã hy vọng rằng Vua Hussein của Jordan có thể trở thành đối tác đàm phán Ả Rập của Israel chứ không phải là Yasser Arafat. Peres đã bí mật gặp gỡ với Hussein tại London năm 1987 và đạt tới một thoả thuận khung với ông này, nhưng nó đã bị Thủ tướng Israel khi đó là Yitzhak Shamir bác bỏ. Ngay sau khi cuộc Intifada lần thứ nhất diễn ra, và bất kỳ khả năng nào Vua Hussein có như một đối tác tiềm năng của Israel trong việc giải quyết số phận của Bờ Tây đã tan biến. Sau đó, Peres dần chuyển sang ủng hộ những cuộc đàm phán với PLO, dù ông tránh đưa ra cam kết dứt khoát với chính sách này cho tới tận năm 1993.

Peres có lẽ liên kết chặt chẽ nhất với Hiệp định Oslo hơn bất kỳ một chính trị gia nào khác của Israel (gồm cả Rabin) có lẽ chỉ ngoại trừ người được ông bảo trợ, Yossi Beilin. Ông vẫn là một người kiên quyết ủng hộ Hiệp định Oslo và Chính quyền Palestine bởi sự khởi đầu của chúng dù có cuộc Intifada lần thứ nhất và al-Aqsa Intifada (Intifada lần thứ hai). Tuy nhiên, Peres đã ủng hộ chính sách quân sự của Ariel Sharon sử dụng Các lực lượng phòng vệ Israel để ngăn cản các vụ đánh bom tự sát.

Thông thường, Peres hành động như một "người phát ngôn" không chính thức của Israel (thậm chí khi ông đang đứng đối lập) bởi ông có uy tín cao và được cộng đồng ngoại giao và công chúng thế giới tôn trọng. Peres ủng hộ chính sách an ninh của Israel (các chiến dịch quân sự chống khủng bố và hàng rào Bờ Tây của Israel) chống lại những chỉ trích quốc tế và những nỗ lực lên án nó của những người ủng hộ Palestine.

Chính sách ngoại giao của Peres là duy thực. Ví dụ, để xoa dịu Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia Hồi giáo trong vùng với lịch sử thân thiện với Israel, Peres được cho là đã công khai bác bỏ vụ diệt chủng Armenia. Gọi những cáo buộc diệt chủng của người Armenia là "vô nghĩa," Peres còn nói thêm, "Chúng tôi bác bỏ những nỗ lực tạo lập một sự tương tự giữa Holocaust và những cáo buộc của Armenia. Không có gì giống với Holocaust từng diễn ra. Đó là một bi kịch mà người Armenia đã phải trải qua nhưng nó không phải là một vụ diệt chủng." Bộ Ngoại giao Israel, khi đề cập tới những tranh cãi do những phát biểu đó gây ra, sau này cho rằng Peres đã bị trích dẫn sai, và rằng ông "hoàn toàn không nói, như các cơ quan truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ cho là như vậy, 'Cái người Armenia đã trải qua là một thảm kịch, không phải là một vụ diệt chủng.'"

Peres và Iran

Về vấn đề chương trình hạt nhân của Iran và mối đe doạ hiện hữu đặt ra với Israel, Peres nói, "Tôi không ủng hộ một cuộc tấn công quân sự vào Iran, nhưng chúng ta phải nhanh chóng và kiên quyết tạo lập một liên minh các quốc gia mạnh và sẵn sàng để áp đặt những biện pháp cấm vận kinh tế mạnh với Iran." Ông thêm, "Các nỗ lực của Iran nhằm hoàn thành các vũ khí hạt nhân sẽ khiến cả thế giới không thể ngủ yên." Cũng trong bài phát biểu đó, Peres đã so sánh Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad và lời kêu gọi "xoá bỏ Israel khỏi bản đồ" với những lời đe doạ diẹt chủng với người Do Thái ở châu Âu của Adolf Hitler trong những năm trước cuộc Holocaust. Trong một bài phỏng vấn với Đài phát thanh Quân đội ngày 8 tháng 5 năm 2006 ông lưu ý rằng "tổng thống Iran phải nhớ rằng Iran cũng có thể bị xoá khỏi bản đồ". Với lời lưu ý này, Peres đã tạo ra những chỉ trích cứng rắn bất thường từ một nhà phân tích trên truyền hình nhà nước Israel, Yoav Limor, về việc đề cập tới việc tiêu diệt một quốc gia khác. "Có một sự đồng thuận lớn rằng sẽ là tốt hơn nếu Peres không nói điều này, đặc biệt ở thời điểm hiện tại," Limor nói. "Tôi khá chắc chắn rằng Israel không muốn thấy mình ở trong cùng hoàn cảnh điên cuồng như (Tổng thống Iran Mahmoud) Ahmadinejad."

Sách

Shimon Peres là tác giả mười một cuốn sách, gồm: The Next Step (1965) David's Sling (1970) (ISBN 0-297-00083-7) And Now Tomorrow (1978) From These Men: seven founders of the State of Israel (1979) (ISBN 0-671-61016-3) Entebbe Diary (1991) (ISBN 965-248-111-4) The New Middle East (1993) (ISBN 0-8050-3323-8) Battling for Peace: a memoir (1995) (ISBN 0-679-43617-0) For the Future of Israel (1998) (ISBN 0-8018-5928-X) *The Imaginary Voyage: With Theodor Herzl in Israel (1999) (ISBN 1-55970-468-3)

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Shimon Peres** (; ; tên khai sinh **Szymon Perski**; 2 tháng 8 năm 1923 – 28 tháng 9 năm 2016) là Tổng thống thứ 9 của Nhà nước Israel (2007 – 2014). Peres từng hai
Bài **Lịch sử Israel** này viết về lịch sử quốc gia Israel hiện đại, từ khi được tuyên bố thành lập năm 1948 cho tới tới hiện tại. Nền độc lập của Nhà nước Israel
thumb **Yitzhak Rabin** (; , ; 1 tháng 3 năm 1922 – 4 tháng 11 năm 1995) là một chính trị gia và tướng lĩnh Israel. Ông là Thủ tướng thứ năm của Israel, giữ chức
Huy hiệu của Tổng thống Israel **Tổng thống Israel thăm Việt Nam** là các chuyến thăm hoặc làm việc của các Tổng thống Israel đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau
**Benjamin "Bibi" Netanyahu** (, cũng viết là **Binyamin Netanyahu**, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1949) là thủ tướng đương nhiệm của Israel từ năm 2022. Ông trước kia đã giữ chức vụ này từ
Mối **quan hệ ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ - Israel** được thiết lập tháng 3 năm 1949 khi Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia đa số người Hồi giáo đầu tiên (trước Iran vào
**Thủ tướng Israel** (, _Rosh HaMemshala_, _nghĩa._Người đứng đầu chính phủ) là người đứng đầu chính phủ của Israel và là nhân vật chính trị quyền lực nhất ở Israel (chức vụ Tổng thống Israel
**Ehud Olmert** (, , sinh ngày 30 tháng 9 năm 1945) là một nhân vật chính trị Israel, và cựu Thủ tướng Israel đã cầm quyền từ năm 2006 tới năm 2009. Olmert từng là
**_HaDugmaniot, Mùa 2_** là mùa thứ hai của _HaDugmaniot_, được phát sóng từ ngày 11 tháng 1 đến ngày 12 tháng 4 năm 2006 trên Channel 10 và chứng kiến ​​14 cô gái sống trong
Huy chương Giải Nobel **Giải Nobel Hòa bình** là một trong năm Giải Nobel được thành lập theo di chỉ của nhà công nghiệp, nhà phát minh và nhà sản xuất quân trang (vũ khí
**Mohammed Abdel Rahman Abdel Raouf Arafat al-Qudwa al-Husseini** (, 24 tháng 8 năm 1929 – 11 tháng 11 năm 2004), thường được gọi là **Yasser Arafat** () hay theo kunya của ông **Abu Ammar** (),
**Moshe Dayan**, (, sinh ngày 20 tháng 5 năm 1915 – mất 16 tháng 10 năm 1981) là nhà chính trị và tướng lĩnh quân đội của Israel. Trong thời gian làm Tổng tư lệnh
__NOTOC__ Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 6 năm 2007. ## Thứ sáu, ngày 1 tháng 6 *Một bộ lạc thổ dân mới, mang tên "Metyktire", được khám phá ra
|430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1: Tôn Trung Sơn phát biểu về tuyên ngôn Trung Quốc Quốc Dân đảng. * 16 tháng 1: Tôn Trung Sơn phát biểu tuyên ngôn
File:2016 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Các tòa nhà bị ném bom ở Ankara sau âm mưu đảo chính năm 2016 của Thổ Nhĩ Kỳ; phiên tòa luận tội Tổng thống
**Quan hệ Israel – Việt Nam** là mối quan hệ đối ngoại giữa nhà nước Israel và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam và Israel đã thiết lập quan hệ ngoại
**Ezer Weizman** (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1924 - mất ngày 24 tháng 4 năm 2005) là Tổng thống thứ bảy của Israel, lần đầu tiên được bầu vào năm 1993 và tái đắc
**Tzipora Malka "Tzipi" Livni** (, sinh ngày 8 tháng 7 năm 1958 tại Tel Aviv, Israel) là Bộ trưởng Ngoại giao, Quyền Thủ tướng Israel, và là thành viên lãnh đạo đảng Kadima. Sau cuộc
**Ehud Barak** (, tên khi sinh **Ehud Brog** ngày 12 tháng 2 năm 1942) là một chính trị gia Israel, cựu Thủ tướng, và hiện là Bộ trưởng Quốc phòng, Phó thủ tướng và lãnh
**Sharon Vonne Stone** (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1958) là một nữ diễn viên người Mỹ. Nổi danh chủ yếu nhờ hóa thân thành các vai diễn femme fatale và phụ nữ bí ẩn
**Akhzivland** là vi quốc gia nằm giữa Nahariya và biên giới Liban trên bờ biển phía tây Israel. Quốc gia này được thành lập bởi Eli Avivi vào năm 1971. ## Lịch sử Vi quốc
Ngày **2 tháng 8** là ngày thứ 214 (215 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 151 ngày trong năm. ## Sự kiện * 216 TCN – Quân Carthage giành thắng lợi trước quân Cộng
Ngày **28 tháng 9** là ngày thứ 271 (272 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 94 ngày trong năm. ## Sự kiện *48 TCN – Pompey bị ám sát theo lệnh của Vua Ptolemy
**Israel** ( , ), tên gọi chính thức là **Nhà nước Israel** ( ; ), là một quốc gia tại Trung Đông, nằm trên bờ đông nam của Địa Trung Hải và bờ bắc của
nhỏ|Ngôi nhà gốc ở hẻm [[Frankfurter Judengasse]] nhỏ|Một căn nhà của gia tộc Rothschild, [[Lãnh địa tại Waddesdon, Buckinghamshire, được hiến tặng từ thiện bởi gia đình năm 1957]] nhỏ|Một ngôi nhà trước đây thuộc
__NOTOC__ Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 7 năm 2007. ## Chủ nhật, ngày 1 tháng 7
không|Đội quân đất nung
*Những nhà khảo
**Barack Hussein Obama II** ( ; sinh ngày 4 tháng 8 năm 1961) là một chính trị gia, luật sư và tác giả người Mỹ, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ từ năm 2009
300x300px|thumb| ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Otto Stich trở thành tổng thống Thụy Sĩ. **Hiệp ước thương mại tự do giữa México, Hoa Kỳ và Canada. *3 tháng 1: Irkutsk, Nga.
**Lauren Bacall** (tên khai sinh **Betty Joan Perske**, 16 tháng 9 năm 1924 – 12 tháng 8 năm 2014) là một diễn viên điện ảnh và sân khấu người Mỹ gốc Do Thái, được biết
**Mosab Hassan Yousef** (Ả Rập: مصعب حسن يوسف) là con trai của một lãnh tụ trọng yếu của Hamas vốn làm giáp điệp cho Israel trong thập niên 1990, giúp ngăn chặn được rất nhiều
**Giải Ý thức toàn cầu** là một giải thưởng của Câu lạc bộ Budapest dành cho những nhân vật là gương mẫu sống có ý thức trách nhiệm toàn cầu. Giải này được thành lập
thumb|Người Do Thái Ashkenazi ở Israel **Phân biệt chủng tộc ở Israel** đề cập đến tất cả các hình thức, các biểu hiện, các trải nghiệm, và các sắc thái của chủ nghĩa phân biệt
nhỏ|phải|Lãnh đạo Arafat đã có 10 lần đến thăm Việt Nam **Quan hệ giữa Việt Nam và Palestine** khá là bền vững và hữu nghị. Việt Nam đã thiết lập quan hệ gần gũi với
**Cuộc bầu cử tổng thống gián tiếp** được tổ chức tại Israel ngày 10 tháng 6 năm 2014. Kết quả là một chiến thắng cho Reuven Rivlin của Likud. Rivlin sẽ được tuyên thệ nhậm
Quyền **đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới** ở **Israel** là những người khoan dung nhất ở Trung Đông, và trong số những người khoan dung nhất ở Châu Á. Mặc
**Victor Mykhailovych Pinchuk** (, _Viktor Mykhailovych Pinchuk_; sinh ngày 14 tháng 12 năm 1960) là một doanh nhân và nhà tài phiệt người Ukraina. Tính đến tháng 1 năm 2016, _tạp chí Forbes_ đã xếp
**Pierbattista Pizzaballa** (sinh ngày 21 tháng 4 năm 1965) là một hồng y người Ý của Giáo hội Công giáo, giữ chức Thượng phụ Latinh Giêrusalem (Jerusalem) từ ngày 6 tháng 11 năm 2020. Trước
**Reuven "Ruby" Rivlin** (, ; sinh 9 tháng 9 năm 1939) là một chính khách Israel. Trong cuộc bầu cử ngày 10 tháng 6 năm 2014, ông đã đắc cử chức tổng thống Israel. Ông
**Tổng thống Israel** (, _Nesi HaMedina_, nghĩa là _Tổng thống Quốc gia_) là Nguyên thủ quốc gia Israel, người đứng đầu Nhà nước. Song chức vụ Tổng thống chỉ mang tính hình thức, (do sự
**Hôn nhân cùng giới** không hợp pháp ở Israel. Chính phủ Israel đã đăng ký kết hôn cùng giới được thực hiện ở nước ngoài vì một số mục đích từ năm 2006. Tuy nhiên,
**Yityish "Titi" Aynaw** (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1991) là một người mẫu Israel gốc Ethiopia, người đã giành danh hiệu Hoa hậu Israel vào năm 2013. Cô là người Do Thái đầu tiên
**Qaboos bin Said Al Said** (, , __; 18 tháng 11 năm 1940 – 10 tháng 1 năm 2020 là Sultan của Oman từ 1970 cho tới khi ông chết năm 2020. Ông là hậu
phải|nhỏ|300x300px| Bản khắc bốn quyền tự do tại Đài tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt ở [[Washington, D.C.|Washington, DC]] **Tứ tự do** là mục tiêu được Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt nêu rõ vào