✨Sherman Firefly
Xe tăng Sherman Firefly là loại xe tăng hạng trung được sử dụng bởi Quân đội Anh Quốc và một số đơn vị thiết giáp Đồng Minh khác trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Firefly được thiết kế dựa trên mẫu M4 Sherman của Hoa Kỳ, nhưng được trang bị pháo chống tăng QF 17-pounder (76,2 mm) mạnh mẽ của Anh. Được thiết kế với vai trò là sự thay thế tạm thời tới khi các mẫu xe tăng mới của Anh được đưa vào sử dụng, Sherman Firefly đã trở thành mẫu xe phổ biến nhất được lắp pháo 17-pounder trong cuộc chiến.
Trong chiến tranh, Quân đội Anh được trang bị và sử dụng rộng rãi mẫu xe tăng Sherman. Mặc dù họ đã dự kiến phát triển các mẫu xe tăng của riêng mình, ý tưởng về việc lắp pháo chống tăng 17-pounder lên xe tăng Sherman, vốn đã bị từ chối trước đó, đã được chấp thuận, dù vẫn vấp phải sự phản đối của chính phủ. Việc này thành ra lại có lợi với người Anh, vì cả hai thiết kế xe tăng của họ, Mk VIII Challenger và Mk VIII Cromwell, đều gặp nhiều khó khăn và sự trì hoãn trong thiết kế.
Sau khi việc lắp đặt một khẩu pháo lớn như vậy vào tháp pháo của Sherman được giải quyết thành công, Firefly được đưa vào sản xuất trong đầu năm 1944, để kịp trang bị cho Cụm tập đoàn quân 21 của Thống chế Benard Montgomery cho Cuộc đổ bộ vào Normandie. Firefly nhanh chóng nhận được đánh giá tích cực vì khẩu pháo mạnh mẽ của nó có thể bắn xuyên thủng lớp giáp của xe tăng Panther và Tiger của Đức tại Normandie, điều mà không một loại xe tăng nào khác của Quân đội Anh có thể làm được vào thời điểm đó. Nhận biết được điều này, nhiều đơn vị thiết giáp và pháo chống tăng của Đức đã được chỉ định bắn hạ các xe Sherman Firefly trước. Do Firefly có nòng pháo dài và nổi bật, các kíp lái đã cố gắng ngụy trang chúng để khi nhìn từ xa, nó sẽ giống như một khẩu 75 mm thông thường được trang bị tiêu chuẩn cho nhiều xe tăng Sherman. Khoảng 2.100 tới 2.200 chiếc Sherman Firefly đã được đưa vào hoạt động tới khi việc sản xuất được ngừng lại vào năm 1945.
Nguồn gốc
Ý tưởng về việc lắp đặt một khẩu pháo 17-pounder lên xe tăng Sherman ban đầu đã bị từ chối bởi Ban Quyết định về Xe tăng (Tank Decision Board) của Bộ Cung ứng. Mặc dù Quân đội Anh đã sử dụng và biên chế rộng rãi xe tăng Sherman của Mỹ, nhưng theo dự định, sẽ có một thế hệ xe tăng mới của Anh thay thế Sherman trong nhiệm vụ chống tăng. Mẫu xe đầu tiên là xe tăng Cromwell, dự kiến sẽ sử dụng pháo 75 mm HV (High Velocity - Tốc độ cao) Vickers; khẩu pháo này có hiệu suất chống tăng vượt trội so với các mẫu pháo 75 mm và 76 mm của Mỹ được lắp đặt trên các dòng Sherman. Mẫu xe thứ hai là A30 Challenger, được phát triển dựa trên Cromwell nhưng được trang bị pháo 17-pounder uy lực hơn. Hai mẫu xe tăng này - và các mẫu kế nhiệm, Comet và Centurion, vốn đã được nghiên cứu - sẽ thay thế xe tăng Sherman hiện đang biên chế trong Quân đội Anh, và đó là nguyên nhân việc lắp đặt pháo 17-pounder lên Sherman dường như là không khả thi. trái|nhỏ|M4 Sherman, mẫu xe tăng được sử dụng để lắp pháo 17-pounder, sau được biết đến với tên gọi Sherman Firefly. Tuy nhiên, lúc đó đã xuất hiện một vài nỗ lực (không chính thức) được thực hiện nhằm cải thiện hỏa lực của Sherman. Nỗ lực đầu tiên được ghi nhận là của Thiếu tá George Brighty, một sĩ quan của Trung đoàn Xe tăng Hoàng Gia, khi ông đang công tác tại Trường Thiết giáp Chiến đấu Lulworth vào đầu nằm 1943. Mặc dù A30 Challenger đang trải qua các cuộc thử nghiệm ban đầu tại Lulworth, Brighty tin rằng Sherman là mẫu xe tốt hơn để lắp đặt pháo 17-pounder. Tuy nhiên, tháp pháo của Sherman quá nhỏ đối với một khẩu pháo có độ giật rất lớn. Trong lúc điều chỉnh, Brighty đã tháo bỏ hoàn toàn hệ thống giảm giật và cố định khẩu pháo trong tháp pháo, điều đó sẽ làm toàn bộ xe tăng được hấp thụ độ giật, nhưng đây là một ý tưởng xa vời và không thể nói trước được xe tăng sẽ chịu được sức giật đó trong bao lâu. Trong thời gian ở Lulworth, Witheridge đã kiểm tra chiếc A30 Challenger, và "bắt đầu một điệp khúc phàn nàn" về chiếc xe tăng này. Khi biết được Brighty và những nỗ lực của anh trong việc sử dụng thân xe Sherman, Witheridge đã giúp đỡ Brighty và tư vấn cho Brighty các phương pháp nhằm giải quyết vấn đề về độ giật.
Thiết kế
Người được giao trách nhiệm cải tiến và phát triển mẫu xe tăng sẽ được quân đội Anh sử dụng trong cuộc đổ bộ vào Normandie là W. G. K. Kilbourn, một kỹ sư của Công ty Vickers, hiện đang công tác tại Cục Thiết kế Xe tăng (DTD). Điều đầu tiên Kilbourn phải khắc phục là bổ sung hệ thống giảm độ giật cho khẩu pháo 17-pounder. Pháo 17-pounder sẽ giật lùi lại khoảng 40 in (1,0 m) khi nó hấp thụ độ giật tạo ra bởi phát bắn, vốn quá dài so với tháp pháo của Sherman. Kilbourn đã giải quyết vấn đề này bằng cách thiết kế lại hoàn toàn hệ thống độ giật thay vì sửa đổi nó. Các trụ chống giật được rút ngắn và đặt ở hai bên thân súng để tận dụng chiều rộng của tháp pháo. trái|nhỏ|Mặt phải của xe tăng Sherman Firefly cùng với hộp kim loại dùng để chứa radio phía sau tháp pháo. Hệ thống khóa nòng pháo cũng được xoay 90 độ để có thể thực hiện việc nạp đạn ở bên trái thay vì nạp từ trên xuống. Hệ thống radio, thường được lắp đặt ở sau tháp pháo của các xe tăng Anh, đã được dời vào một hộp thép, được lắp ở phía sau tháp pháo, và hộp đó sẽ nối vào tháp pháo thông qua một lỗ lớn.
Vấn đề tiếp theo mà mà Kilbourn gặp phải là bệ pháo, tức một khối kim loại để đặt khẩu pháo lên đó, phải được cắt ngắn để khẩu pháo 17-pounder có thể vừa vặn với tháp pháo và việc này sẽ khiến khẩu pháo trở nên thiếu ổn định. Kilbourn đã thiết kế nòng mới cho pháo 17 pounder với một phần không thon dài hơn ở chân bệ, giúp giải quyết vấn đề ổn định. Miếng giáp trước tháp pháo được thiết kế để phù hợp với khẩu pháo và giá đỡ pháo được sửa đổi. Firefly không có giáp hoặc không có lợi thế về khả năng cơ động so với xe tăng Sherman bình thường ngoài lớp bảo vệ 13 mm được bổ sung thêm vào mặt trước tháp pháo. Những nâng cấp và sửa đổi quy mô đến mức những khẩu pháo 17-pounder được lắp đặt cho Sherman Firefly phải được sản xuất riêng biệt.
Từ tháng 10 đến tháng 11 năm 1943, dự án bắt đầu nhận được sự quan tâm của các đơn vị quân đội Anh. Cụm tập đoàn quân 21 được thông báo về loại xe tăng mới này trong tháng 10 năm 1943. Ngay cả trước khi cuộc thử nghiệm cuối cùng được tiến hành vào tháng 2 năm 1944, đã có đơn đặt hàng gồm 2.100 xe tăng Sherman trang bị pháo 17-pounder do chương trình phát triển Xe tăng Challenger đang gặp nhiều trì hoãn, và người Anh nhận ra rằng sẽ có rất ít xe Challenger được sẵn sàng cho Normandie. Tệ hơn, người Anh phát hiện ra Cromwell không có vành tháp pháo đủ rộng để lắp đặt khẩu pháo 75mm HV mới, và thay vào đó, chúng sẽ được lắp đặt pháo QF 75 mm đa dụng tiêu chuẩn. Điều này khiến Sherman Firefly trở thành xe tăng duy nhất của quân đội Anh có hỏa lực vượt trội hơn khẩu pháo QF 75 mm, và nó nhanh chóng được Winston Churchill đặt lên ưu tiên hàng đầu.
Vũ trang
trái|nhỏ|Pháo Ordnance QF 17-pounder, loại pháo được trang bị cho xe tăng Sherman Firefly. Pháo chính của Sherman Firefly là Pháo Ordnance QF 17-pounder. Phát triển dựa trên phiên bản QF 6-pounder trước đó, 17-pounder là pháo chống tăng mạnh mẽ nhất của Quân đội Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và là một trong những khẩu pháo chống tăng mạnh nhất so với những khẩu pháo của các quốc gia khác, có khả năng xuyên mạnh hơn pháo 8.8 cm KwK 36 được lắp đặt trên xe tăng Tiger I của Đức Quốc Xã. Theo lý thuyết, pháo 17-pounder của Firefly có để xuyên được lớp giáp dày 163 mm (6,4 in) ở khoảng cách 500 m và 150 mm (5,9 in) ở khoảng cách 1.000 m với loại đạn pháo APCBC (Armor-piercing, capped, ballistic capped shell - Đạn xuyên giáp đầu cứng chóp gió). Đạn APDS (Armour piercing, discarding sabot - đạn xuyên giáp có guốc giảm cỡ nòng) có thể xuyên được lớp giáp dày khoảng 256 mm ở khoảng cách 500 m và 233 mm ở khoảng cách 1.000 m, trên lý thuyết, có thể bắn xuyên được giáp của gần như tất cả các loại xe thiết giáp Đức ở mọi khoảng cách. Tuy nhiên, đạn APDS sản xuất trong thời chiến có độ chính xác kém, và đầu xuyên 50 mm có sát thương thấp hơn sau khi xuyên thủng lớp giáp xe tăng địch so với đạn APCBC. Việc cung cấp APDS khá hạn chế tới khi chiến tranh kết thúc. Trong khi Sherman Firefly có khả năng mang theo 77 viên đạn, việc thiết kế và nâng cấp cho thấy chỉ có 23 viên đạn là có thể sẵn sàng và dễ đưa vào chiến đấu hơn khi xe tăng tiến công trên mặt trận.
Mặc dù pháo 17-pounder có khả năng chống tăng vượt trội, đạn HE (High Explosive - Đạn nổ mạnh) của chúng có hiệu quả kém và yếu thế hơn so với đạn HE của pháo 75 mm tiêu chuẩn của Sherman khi chống lại các mục tiêu như lính bộ binh, các tòa nhà hoặc thiết giáp hạng nhẹ. Một loại đạn HE tốt hơn cho khẩu pháo 17-pounder chỉ được cung cấp vào cuối năm 1944, và mặc dù vậy, chúng vẫn không hiệu quả bằng đạn HE tiêu chuẩn của pháo 75 mm.
Sản xuất
Ba biến thể khác nhau của Sherman Firefly đã được sản xuất và tham chiến trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, mỗi biến thể dựa trên một biến thể khác nhau của M4 Sherman, bao gồm: Sherman I (M4), Sherman I Hybrid (M4 Composite) và Sherman V (M4A4). Một số lượng nhỏ những chiếc Sherman II (M4A1) của Canada, Sherman Grizzly, được nâng cấp thành Firefly và được sử dụng để huấn luyện, nhưng không có chiếc nào tham chiến ở các mặt trận trong cuộc chiến. Phần lớn những chiếc Firefly được hoán cải từ Sherman V (M4A4) trong số khoảng 7.200 chiếc được viện trợ cho Quân đội Anh. trái|nhỏ|Xe tăng Cromwell (trái) và Sherman Firefly (phải) Việc sản xuất Firefly được bắt đầu từ tháng 1 năm 1944, và đến 31 tháng 5, có khoảng 342 xe tăng Sherman Firefly đã được cung cấp cho Tập đoàn quân 21 để chuẩn bị cho Chiến dịch Overlord. Vào cuối năm 1944, với việc chế tạo thành công một loại đạn HE cho pháo 17-pounder, các đơn vị xe tăng Anh được nâng lên hai xe Firefly mỗi đại đội. Đến tháng 2 năm 1945, có khoảng 2.000 xe tăng Sherman Firefly đã đựoc chế tạo và cung cấp cho các đơn vị thiết giáp Anh và Khối Thịnh vượng chung, và các đơn vị thiết giáp của Ba Lan được trang bị xe tăng Sherman 75 mm và Sherman Firefly một cách hỗn hợp. Cuốn The Sherman Firefly của Mark Hayward đưa ra con số 2.002 xe tăng Sherman Firefly đã được sản xuất giữa tháng 1 năm 1944 và tháng 2 năm 1945, và tổng cộng là 2.139 xe tính đến thời điểm chiến tranh kết thúc.
Lịch sử hoạt động
Normandie
nhỏ|Một xe tăng Sherman FIrefly thuộc Sư đoàn Thiết giáp số 7 đang đổ bộ vào [[Bãi Gold, 7 tháng 6 năm 1944]] Firefly lần đầu tiên được đưa vào biên chế của các lữ đoàn và sư đoàn của Cụm tập đoàn quân 21 trong năm 1944, ngay trước khi bắt đầu Chiến dịch Overlord. Vào thời điểm đó, tình báo Đồng Minh bắt đầu nhận được những thông tin rằng quân đội Đức hiện đã triển khai một số lượng lớn xe tăng mạnh mẽ hơn (như Panther) so với dự đoán ban đầu. Tuy nhiên, thông tin này đã không kịp đưa lên các cấp chỉ huy Đồng Minh một cách nhanh chóng, vốn vẫn đang lầm tưởng rằng Panther, giống như Tiger, sẽ là một loại xe tăng hạng nặng hiếm hoi, được sản xuất với số lượng hạn chế, sẽ không tham chiến nhiều trên các mặt trận. Vì vậy, số lượng xe tăng Panther được triển khai ở Normandie nhiều hơn dự kiến đã gây ra bất ngờ đối với các chỉ huy và đội xe tăng Đồng Minh, và họ buộc phải giao chiến bằng những khẩu pháo không thể xuyên thủng giáp của chúng trừ khi được bắn ở cự ly gần.
Lingèvres
Trong thời gian diễn ra Chiến dịch Perch, ngày 14 tháng 6, chiếc Firefly của Trung sĩ Wilfred "Spit" Harris thuộc Trung đoàn Cận Vệ Kỵ binh Hoàng Gia 4 và 7, với sự hỗ trợ của ba xe tăng Sherman tiêu chuẩn khác, đã thiết lập một tuyến phòng thủ với các đơn vị bộ binh thuộc Trung đoàn Bộ binh Hạng nhẹ Durham, sau khi chiếm được thị trấn Lingèvres, gần Tilly-sur-Seulles. Khoảng mười phút sau khi Harris đưa chiếc Firefly vào vị trí phòng thủ ở phía đông Lingèvres để kiểm soát con đường D13 nối giữa Lingèvres và Tilly-sur-Seulles. Harris sau đó phát hiện ra hai chiếc Panther, thuộc Sư đoàn Panzer Lehr 130, đang tiến về Lingèvres. Khi chiếc Panther đầu tiên đi vào tầm ngắm, cách chiếc Firefly khoảng 800 m, pháo thủ Ian Mackillop khai hỏa và bắn hạ chiếc Panther bằng viên đạn đầu tiên và chiếc thứ hai cũng bị hạ bởi viên đạn thứ hai. Khoảng 16:15, Harris nhận được tin có một nhóm Panther được phát hiện ở phía tây thị trấn, và ông cho lùi xe về phía một trang trại nhỏ và di chuyển vào vị trí mớ. Tại đó, Harris phát hiện ra thêm ba chiếc Panther đang di chuyển trên đường D13 từ Balleroy để tiến vào Lingèvres. Do vị trí nấp quá hoàn hảo giữa các rặng cây và tòa nhà, lính Đức không phát hiện ra chiếc Firefly của Harris. Khi chiếc Panther đầu tiên tiến vào ngoại ô Lingèvres, nó nhanh chóng bị bắn hạ bởi chiếc Firefly của Harris. Chiếc Panther thứ hai cố vượt qua chiếc Panther đầu tiên nhưng cũng bị Harris bắn trúng. Chiếc Panther thứ hai hỏng nặng tới mức kíp lái đã phải bỏ xe khi họ tiến được vào trung tâm Lingèvres. Chiếc Panther thứ ba, sau khi vượt qua xác chiếc Panther đầu tiên, ngay lập tức bị xe tăng của Harris bắn hạ. Quân Đức nhanh chóng rút lui khỏi Lingèvres. Trong tổng số mười xe tăng Đức (chín Panther và một Tiger) bị bắn hạ tại Lingèvres, năm chiếc bị bắn hạ bởi chiếc Firefly của Wilf Harris chỉ với năm viên đạn duy nhất.
Saint-Aignan-de-Cramesnil
Cuộc đấu tăng giữa lực lượng Anh-Canada và Đức tại Saint-Aignan-de-Cramesnil trong Chiến dịch Totalize ngày 8 tháng 8 năm 1944 là một trong những trận đánh nổi tiếng nhất gắn liền với tên tuổi của Sherman Firefly, khi có năm xe tăng Tiger I bị bắn hạ, trong đó có chiếc Tiger của Michael Wittmann, một trong những chỉ huy xe tăng tài ba nhất của Đức trong cuộc chiến. Lực lượng Anh-Canada bao gồm những chiếc Sherman Firefly của Đại đội A, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Kỵ binh Northamptonshire, Lữ đoàn Thiết giáp 33, cùng với Đại đội A, Trung đoàn Thiết giáp 27, Lữ đoàn Thiết giáp số 2 Canada và Đại đội B, Trung đoàn Thiết giáp Hoàng Gia 144, Lữ đoàn Thiết giáp 33. Họ đã phục kích một nhóm xe tăng gồm bảy chiếc Tiger I thuộc Đại đội 3, và Đại đội HQ, Tiểu đoàn Tăng Hạng nặng SS 101, có sự hỗ trợ của các xe tăng Panzer IV và pháo tự hành xung kích Sturmgeschütz IV. Các xe tăng của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Kỵ binh Northamptonshire, sau khi đến làng Saint-Aignan-de-Cramesnil trong sáng ngày 8 tháng 8 năm 1944, đã chia nhỏ ra để bảo vệ ngôi làng. Đại đội B đóng ở trong làng, Đại đội A và C tiến về phía nam rồi đóng trong một khu rừng tên là Delle de la Roque.
Đại đội C đóng ở mạn phía đông của khu rừng và Đại đội A đóng ở phía bắc, với Trung đội 3 của Đại đội A canh giữ rìa phía tây của khu rừng. Từ khu vực này, họ có thể bao quát được toàn bộ khu vực trống rộng lớn và dễ dàng quan sát được các xe tăng Đức đang tiến về ngôi làng từ Cintheaux trên Đường Nationale 158. Khi những chiếc Tiger đi vào tầm bắn, những gì xảy ra sau đó là một trận chiến kéo dài 12 phút, và Joe Ekins, pháo thủ một chiếc Sherman Firefly tên là Velikye Luki, dưới sự chỉ huy của Trung sĩ Douglas Gordon, đã bắn hạ ba chiếc Tiger I mà Đại đội 3 có thể phát hiện ra được. Do xung đột trong khu vực ngày càng gia tăng, Firefly được nâng cấp theo tiêu chuẩn "Sherman Repotenciado", bao gồm pháo chính mới (lấy từ pháo của CN-105-57) và động cơ mới Poyaud 520/V8-S2. Các đơn vị đầu tiên sử dụng bản nâng cấp này được thành lập vào tháng 1 năm 1978.
Paraguay
Năm 1971, Quân đội Argentina đồng ý chuyển giao cho Quân đội Paraguay ba xe tăng Firefly được nâng cấp pháo và động cơ mới, ba xe "Sherman Repotenciados" này được trao đổi vào năm 1988 và hiện đã nghỉ hưu.
Các quốc gia vận hành
Thế chiến II
nhỏ|Xe tăng Firefly của Trung đoàn Pretoria, Sư đoàn Thiết giáp số 6 Nam Phi, Italy 1944
;
Tây-Bắc Châu Âu
- Lữ đoàn Thiết giáp số 4
- Lữ đoàn Thiết giáp số 8
- Lữ đoàn Thiết giáp 27
- Lữ đoàn Thiết giáp 33
- Sư đoàn Thiết giáp Cận Vệ
- Sư đoàn Thiết giáp số 7
- Sư đoàn Thiết giáp 11
Italy
- Sư đoàn Thiết giáp số 1
- Sư đoàn Thiết giáp số 6
; Canada
- Lữ đoàn Thiết giáp số 1 (được biên chế hai xe Firefly mỗi trung đội khi tiến quân vào Hà Lan từ Italy năm 1945).
- Lữ đoàn Thiết giáp số 2
- Lữ đoàn Thiết giáp số 4
- Lữ đoàn Thiết giáp số 5 (được trang bị Firefly khi chiến đấu ở đông-bắc Châu Âu năm 1945).
;
- Lữ đoàn Thiết giáp số 4 New Zealand
;
- Sư đoàn Thiết giáp số 1 Ba Lan
- Lữ đoàn Thiết giáp số 2 Ba Lan
;
- Sư đoàn Thiết giáp số 6 Nam Phi
Hậu chiến
;
- Quân đội Argentina đặt mua hơn 200 xe tăng Sherman Firefly vào năm 1947, trong biên chế tới giữa những năm 1970.
; ; ;
- Quân đội Lebanon đặt mua 16 xe tăng Firefly từ Italy vào năm 1949. Hai trong số đó được chuyển giao cho Phiến quân Al-Mourabition trong năm 1976.
; ;
- Quân đội Paraguay mua ba xe Sherman Repotenciado (phiên bản nâng cấp của Sherman Firefly) từ Argentina trong năm 1971.