Seppuku với y phục nghi lễ và Kaishakunin.
Seppuku (tiếng Nhật: 切腹, Hán Việt: thiết phúc, có nghĩa là "mổ bụng") hay harakiri (tiếng Nhật: 腹切り) là một nghi thức tự sát thời xưa của người Nhật. Theo nghi thức này, một samurai sẽ tự mổ bụng tuẫn tiết khi bị thất trận, hoặc khi chủ bị chết để tránh bị rơi vào tay quân thù và bị làm nhục. Nó cũng có thể là một hình thức tử hình đối với các samurai đã phạm tội nghiêm trọng, hoặc họ quyết định tự thực hiện vì ân hận đã phạm tội nghiêm trọng làm bản thân phải xấu hổ. Việc tự mổ bụng khi chủ bị chết tiếng Nhật gọi là oibara (追腹 hay 追い腹) hay junshi (殉死) (tuẫn tử). Việc tự mổ bụng được tiến hành trong phòng với trình tự nghi lễ trang trọng, và đây cũng được cho là coup de grâce của Nhật Bản.
Nghi lễ mổ bụng, thường là một phần của một nghi lễ phức tạp hơn và được thực hiện trước khán giả, bao gồm một lưỡi kiếm ngắn, theo truyền thống là một thanh đoản đao tantō, được đâm vào bụng và đưa lưỡi dao từ trái sang phải, cắt và mở tung bụng ra. Nếu vết cắt đủ sâu, nó có thể cắt đứt động mạch chủ, gây mất máu ồ ạt bên trong bụng, dẫn đến tử vong nhanh chóng do xuất huyết.
Tổng quan
Seppuku là một phần chính của võ sĩ đạo (bushido) - luật của các samurai; tự mổ bụng là cách các chiến binh tránh bị rơi vào tay quân thù và để giảm sỉ nhục. Samurai còn có thể được các lãnh chúa đại danh (daimyo) ra lệnh phải tự mổ bụng. Sau này, các samurai bị ô nhục được phép tự mổ bụng thay vì bị hành quyết theo cách thông thường. Do mục đích chính của nghi lễ này là bảo vệ danh dự của samurai, những ai không thuộc về giới samurai sẽ không bao giờ thực hiện hay bị ra lệnh thực hiện nghi lễ này. Những samurai nữ chỉ thực hiện tự mổ bụng với sự cho phép.
Nghi lễ
nhỏ|phải|Một đoản đao (短刀 - [[tantō) được chuẩn bị cho nghi lễ seppuku]]
Tướng [[Akashi Gidayu chuẩn bị tự mổ bụng sau khi thua trận bảo vệ chủ năm 1582. Ông vừa viết xong từ thế cú, có thể thấy ở góc phía trên.]]
Phụ nữ cũng có lễ seppuku của riêng họ, [[jigai. Đây là vợ của Onodera Junai, một trong 47 lãng nhân nổi tiếng trong lịch sử, đang chuẩn bị cho lễ tự tử của mình; hãy chú ý, hai chân bà được trói lại, đây là điểm đặc biệt trong seppuku của phụ nữ, thể hiện sự trung thành vĩnh viễn đối với chồng của mình.]]
Thời đấy, tự mổ bụng được thực hiện theo trình tự nghi thức. Một samurai được tắm rửa, mặc áo dài trắng, ăn thức ăn khoái khẩu và khi xong thì dụng cụ thực hiện nghi thức mổ bụng được đặt trên một cái đĩa của ông. Ông ăn mặc theo lễ nghi với cây kiếm đặt trước mặt và thường ngồi trên những tấm vải đặc biệt, người samurai này sẽ chuẩn bị cho cái chết của mình bằng cách viết một bài thơ từ thế cú. Với một người kaishakunin (người sẽ chém đầu người samurai đã mổ bụng sau khi ông đã thực hiện xong nghi lễ sepukku) đứng cạnh bên, ông sẽ cởi áo kimono, lấy thanh kiếm ngắn wakizashi hay con dao (tantō) và đâm vào bụng, cắt theo một đường từ trái sang phải. Người kaishakunin sẽ thực hiện daki-kubi, đó là một nhát chém gần như đứt hẳn đầu của người Samurai (Vẫn còn 1 dải thịt mỏng gắn đầu với thân thể). Do đây là một kĩ thuật đòi hỏi sự chính xác cao, nên người làm việc này thường là 1 kiếm sĩ lão luyện. Thường 1 nhát chém hoàn hảo theo đúng nghi thức sẽ được thực hiện ngay sau khi thanh dao vừa ngập vào ổ bụng của người Samurai.
Sau khi nghi lễ phức tạp này ngừng lại thì seppuku trở thành bài thực hành trong chiến tranh hoặc một hình phạt của luật pháp (Xem phần dưới).
Người làm công việc chém đầu Samurai không phải luôn luôn nhưng thường là một người bạn. Nếu một người samurai bại trận được một ai đó tôn sùng, người đó sẽ tình nguyện trở thành Kaishakunin cho người Samurai với mong muốn được thể hiện niềm kính trọng của mình. Seppuku lần đầu tiên được thực hiện bởi Minamoto no Yorisama vào năm 1180.
Trong cuốn Hagakure, Yamamoto Tsunetomo đã viết:
Một số Samurai lựa chọn cách chết đau đớn hơn trong nghi lễ này gọi là jūmonji-giri (十文字切り, nghĩa là "Cắt hình chữ thập"), khi đó, trong nghi lễ sẽ không có Kaishakunin để kết thúc nhanh chóng nỗi đau của người Samurai. Trong cách tự tử này, sau vết cắt đầu tiên, Samurai sẽ cắt vết thứ 2, đau đớn hơn nhiều, cắt dọc theo dạ dày. Một Samurai chấp nhận trở thành jumonji-giri sẽ phải chịu đựng một cái chết trong sự yên lặng bằng việc bị mất máu dần dần, đôi bàn tay ông ta sẽ che lấy khuôn mặt và ra đi một cách từ từ.
Hình phạt seppuku
Trong khi seppuku tự nguyện được nhiều người biết đến và ngưỡng mộ như một hành động của danh dự, nhưng thực tế, dạng seppuku phổ biến nhất là Seppuku cưỡng bức, sử dụng như một hình phạt luật pháp dành cho những Samurai bị ô nhục, đặc biệt là đối với những ai đã gây ra những vụ việc nghiêm trọng như giết người vô cớ, trộm cắp, tham nhũng, hoặc mưu phản. Người Samurai sẽ gần như bị buộc tội và sẽ phải thực hiện seppuku như 1 hình phạt, thường anh sẽ phải làm việc này vào lúc bình minh hoặc hoàng hôn. Nếu người bị kết tội không thực hiện hình phạt, thì cuộc hành quyết sẽ được thực hiện bằng hình thức chém đầu là chuyện không phải chưa từng xảy ra. Khi đó, thanh wakizashi sẽ được thay bằng 1 chiếc quạt. Một cuộc hành quyết như vậy vẫn mang hình thức là một cuộc seppuku. Không giống như seppuku tự nguyện, gia đình của Samurai phải thực hiện seppuku như một bản án sẽ phải chịu sự liên lụy. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vụ việc mà một nửa hoặc toàn bộ gia sản sẽ bị tịch thu, gia đình người đó sẽ rơi vào tình trạng kiệt quệ.
Seppuku thời hiện đại
Seppuku được thực hiện như 1 hình phạt luật pháp đã được bãi bỏ từ năm 1873, ngay sau cuộc Minh Trị Duy tân, nhưng seppuku tự nguyện thì chưa chấm dứt hẳn. Vẫn còn rất nhiều người sau đó được biết đến là đã thực hiện seppuku. Chẳng hạn như Saigō Takamori - "người samurai chân chính cuối cùng" - đã thực hiện seppuku sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh Tây Nam, hay Đại tướng Lục quân Maresuke Nogi và vợ sau khi Thiên hoàng Minh Trị qua đời vào 1912; và của rất nhiều quân nhân và thường dân đã lựa chọn được chết để không phải đầu hàng vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vào năm 1970, nhà văn nổi tiếng Yukio Mishima cùng một người học trò đã thực hiện seppuku công khai tại tổng hành dinh của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản sau 1 nỗ lực bất thành trong việc xúi giục lực lượng vũ trang tổ chức đảo chính. Mishima đã thực hiện seppuku ngay trong văn phòng của tướng Kanetoshi Mashita. Kaishakunin của ông, một thanh niên 25 tuổi tên là Masakatsu Morita, đã cố gắng chặt đầu ông theo như nghi thức nhưng không thành. Cuối cùng, người làm công việc này là Hiroyasu Koga. Morita sau đó đã cố gắng thực hiện seppuku cho anh. Mặc dù vết cắt của anh chưa đủ sâu để có thể lập tức lấy mạng, nhưng cuối cùng anh vẫn được Koga chặt đầu.
Năm 1999, Masaharu Nonaka, Một công nhân 58 tuổi của công ty Bridgestone Japan, đã cắt ngang bụng ông bằng con dao sashimi (dao làm bếp) để phản đối quyết định buộc ông phải nghỉ việc của ban lãnh đạo. Ông đã chết sau đó tại bệnh viện. Vụ tự tử này, đã trở nên nổi tiếng và được biết đến dưới cái tên 'risutora seppuku', là hậu quả của thời kì khó khăn theo sau sự sụp đổ của một nền kinh tế bong bóng ở Nhật Bản.
Những người nổi tiếng đã từng thực hiện seppuku
- Saigō Takamori
- Minamoto no Yorimasa
- Minamoto no Yoshitsune
- Azai Nagamasa
- Oda Nobunaga
- Shibata Katsuie
- Yamanami Keisuke
- Hojo Ujimasa
- Sen no Rikyu
- Maresuke Nogi
- Anami Korechika
- Yukio Mishima
- Toyotomi Hideyori
- Ōishi Yoshio
- Bốn mươi bảy Ronin
Nagumo Chuichi
Kuribayashi Tadamichi (không rõ)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Seppuku với y phục nghi lễ và Kaishakunin. **_Seppuku_** (tiếng Nhật: 切腹, Hán Việt: _thiết phúc_, có nghĩa là "mổ bụng") hay **_harakiri_** (tiếng Nhật**:** 腹切り) là một nghi thức tự sát thời xưa của
nhỏ|phải|Hương khói tại lăng mộ của 47 võ sĩ không chủ ở chùa Tuyền Nhạc Tự. Câu chuyện về **bốn mươi bảy rōnin**, còn được biết dưới tên **cuộc trả thù Akō** hay là ,
là một daimyo thời Sengoku, thời kỳ Azuchi-Momoyama. Ông sinh năm 1558, cha ông được cho là đã từng phục dịch cho Ōtomo Sōrin hoặc Rokkaku Yoshikata. Ông là thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi và
là cháu trai và thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi, sống trong thời đại Sengoku, thế kỷ 16 ở Nhật. Là người theo shudo, Hidetsugu có rất nhiều wakashu. Trong số đó có Yamamoto Tonoma, Yamada
là con trai của Azai Hisamasa, một daimyo vùng Omi. Nagamasa đã có nhiều chiến tích trên chiến trường cùng Rokkaku Yoshitaka và Saito Katsuoki. Những trận đánh tiêu biểu mà Nagamasa đã tham gia
là một trong tứ đại Hitokiri thời Mạc mạt, samurai ưu tú, hoạt động vào cuối thời Mạc phủ Tokugawa vào những năm 1860. Hitokiri Shinbei hoạt động dưới trướng Takechi Hanpeita, thủ lĩnh phe
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
, gọi tắt là **Benkei** (_Biện Khánh_), một tăng binh (_sōhei_) đã phục vụ dưới trướng Minamoto no Yoshitsune (源義經). Ông thường được miêu tả là một hộ pháp to tướng với lòng trung thành
là một bộ phim hồng năm 1983 đạo diễn bởi Nakamura Genji và kịch bản do Mochizuki Rokurō viết. Là tác phẩm châm biếm về cuộc đời của tác giả và nhà dân tộc Mishima
, còn được gọi trong tiếng Nhật là và trong tiếng Anh là **vụ ẩu đả Bizen** hoặc **biến cố Bizen**, là một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Đế quốc Nhật Bản và một
thumb|Sự kiện Sakai, Nhật Bản. _[[Le Monde Illustré_, 1868.]] là vụ giết hại 11 thủy binh Pháp từ hộ tống hạm _Dupleix_ của Pháp tại cảng Sakai gần Osaka, Nhật Bản vào năm 1868. Ngày
**Trận Uji lần thứ nhất** nổi tiếng và quan trọng vì mở đầu cho Chiến tranh Genpei. Đầu năm 1180, Hoàng tử Mochihito, người được gia tộc Minamoto ủng hộ lên ngôi, bị quân đội
**Tự sát** (Hán tự: 自殺, có nghĩa là "tự giết", tiếng Anh: _suicide._ Bắt nguồn từ Tiếng Latinh: _Suicidium, từ_ chữ _sui caedere_ nghĩa là "giết chính mình") hay **tự tử**, **quyên sinh**, **trẫm mình**,
**Obata Hideyoshi** (小畑英良, おばた ひでよし) (2 tháng 4 năm 1890 - 11 tháng 8 năm 1944) là một vị tướng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Ông đã mổ
là một nữ ca sĩ-nhạc sĩ và diễn viên lồng tiếng người Nhật nổi tiếng đến từ tỉnh Fukuoka, cô cũng là thành viên của I'm Enterprise. Người hâm mộ gọi cô một cách trìu
nhỏ|Peter Watts, 2010. **Peter Watts** (sinh năm 1958) là một tác giả tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Canada và là một nhà sinh học về động vật có vú sống ở biển. ## Sự
**Tanto** (短刀, _"đoản đao"_) là một loại dao găm của Nhật, dài từ khoảng 15-30 cm, thường dùng để đâm, tuy nhiên dùng phần mũi dao để chém cũng khá tốt. Chúng phần lớn được
thumb|Khu công nghiệp Tập Thành Quán (集成館) do Shimazu Nariakira thành lập năm 1852 tại Iso (磯), [[phiên Satsuma. Một _dị nhân quán_ (異人館) được xây dựng để làm chỗ ở cho bảy kỹ thuật
liên quan đến vụ sát hại hai thủy thủ Hải quân Hoàng gia ở Nagasaki, Nhật Bản, vào năm 1867, dẫn đến căng thẳng ngoại giao gia tăng giữa Vương quốc Liên hiệp Anh và
**Sự kiện Ejima - Ikushima** (kanji: 絵島生島事件, Hiragana: えじま いくしまじけん, roman-ji: _Ejima Ikushima jiken_) là một vụ bê bối nổi tiếng diễn ra trong hậu cung Mạc phủ dưới thời Edo trong lịch sử Nhật
Ngày **4 tháng 2** là ngày thứ 35 trong lịch Gregory. Còn 330 ngày trong năm (331 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *266 – Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán sai sứ giả dâng
**Ngày 25 tháng 11** là ngày thứ 329 trong mỗi năm thường (thứ 330 trong mỗi năm nhuận). Còn 36 ngày nữa trong năm. ## Sự kiện * 1034 – Malcolm II nước Scotland qua
**Chức Điền Thị** (Kana: おだ市; chữ Hán: 織田市, Romaji: Oda Oichi; 1547 - 14 tháng 6, 1583), còn được gọi là **Thị Cơ** (市姬) hoặc **Tiểu Cốc chi Phương** (小谷之方; お市の方; Oichi no Kata), là
(1565–21/6/1582) tên thời thơ ấu là , là con của Mori Yoshinari, Ranmaru còn có một người em là Mori Nagayoshi, quê tỉnh Mino. Tương truyền Ranmaru rất đẹp trai, là nam sủng của Nobunaga
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
là một tỉnh của Nhật Bản, nằm ở vùng Tōhoku trên đảo Honshū, Nhật Bản. Cách thủ đô Tokyo khoảng 300 km về hướng Bắc. Thủ phủ là thành phố Fukushima. Và được thành lập
là một daimyo thời kỳ Sengoku, ông là con trai cả của Takeda Shingen và Sanjô Kimiyori. Năm 1550, Yoshinobu đã lấy chữ _Yoshi_ (義) đặt cho mình từ một shogun thứ 13 của dòng
(1528 – 2 tháng 7 năm 1582) là tướng thân cận nhất và giỏi nhất của Oda Nobunaga (và cả Toyotomi Hideyoshi) nhưng lại phản bội ông. Vào tháng 6 năm 1582, trong lúc chiến tranh
là cuộc chiến giữa hai gia tộc Taira và Minamoto vào cuối thời kỳ Heian của Nhật Bản. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại của gia tộc Taira và sự thành lập của
nhỏ|"Yoshitsune và Benkei ngắm hoa anh đào nở", của [[Yoshitoshi|Yoshitoshi Tsukioka]] **Minamoto no Yoshitsune** (tiếng Nhật: 源 義経, **_Nguyên Nghĩa Kinh_** hay còn gọi là **Nguyên Cửu Lang Nghĩa Kinh**, chữ _Tsune_ có nghĩa là
**Mishima Yukio** (三島 由紀夫; phiên âm: **Tam Đảo Do Kỷ Phu**), tên thật **Hiraoka Kimitake** (平岡 公威; phiên âm: **Bình Cương Công Uy**) (14 tháng 1 năm 1925 - 25 tháng 11 năm 1970) là
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Trận Aizu** (tiếng Nhật: 会津戦争, "Trận Hội Tân") diễn ra ở phía Bắc Nhật Bản vào mùa thu năm 1868, và là một phần của Chiến tranh Boshin. Aizu được biết đến với khả năng
nhỏ|Gia huy của [[Gia tộc Tokugawa]] là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shōgun (Tướng Quân) đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa,
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
**Shibata Katsuie** (柴田勝家 _Sài Điền Thắng Gia_), 1522-1583), còn có tên là **Gonroku** (権六 _Quyền Lục_), là một dũng tướng của Oda Nobunaga và đã theo quân của Oda từ hồi còn trẻ cho tới
là con trai của Oda Nobutada và sống trong thời đại Azuchi-Momoyama vào cuối thế kỷ 16. Ông có tên khác là . ## Tranh chấp quyền thừa kế Khi Oda Nobutada và Oda Nobunaga,
là trận đánh giữa Toyotomi Hideyoshi và Akechi Mitsuhide vào năm 1582 ở Yamazaki, Nhật Bản, hiện nay là Kyoto. Trận đánh này đôi khi được gọi là . Akechi Mitsuhide, thuộc hạ của Oda
, còn được gọi là và đôi khi là **Đại Ngu viện** (大虞院) hoặc **Đại Quảng viện** (大廣院), là một trong các thiếp được sủng ái nhất của Toyotomi Hideyoshi, sau chính thất Nene. Trong
là một samurai và thành viên của gia tộc Oda. Ông được nhận làm con nuôi và trở thành tộc trưởng của gia tộc Kanbe thống trị vùng trung du tỉnh Ise và còn được
là con trai trưởng của Oda Nobunaga, và là một samurai trải qua nhiều trận đánh trong thời đại Sengoku. Ông chỉ huy quân đội dưới quyền cha mình trong những trận chống lại Matsunaga
nhỏ|Lăng mộ gia tộc Toyotomi ở [[núi Koya]] nhỏ|Đánh dấu nơi Hideyori và phu nhân Yodo tự sát, lâu đài Osaka là con trai và người thừa kế hợp pháp của Toyotomi Hideyoshi, vị tướng
là trận đánh trong thời đại Sengoku ở Nhật Bản giữa những người ủng hộ Toyotomi Hideyoshi và Oda Nobutaka. Vào tháng 4, 1583, một cựu tướng quân của Nobunaga tên là Shibata Katsuie tiến
The [[Minami-za|Minamiza, nhà hát Kabuki ở Kyoto]] Nhà hát [[Kabukiza ở Ginza là một trong những nhà hát "kabuki" hàng đầu ở Tokyo.]] **Kabuki** (tiếng Nhật: 歌舞伎, Hán-Việt: _ca vũ kỹ_) là một loại hình
được coi là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng sâu sắc đến _chanoyu,_ trà đạo Nhật Bản, đặc biệt là truyền thống _wabi-cha_. Ông cũng là người đầu tiên nhấn mạnh đến một
Phòng trà dát vàng ở lâu đài Fushimi (Momoyama), Kyoto ở vào cuối thời Chiến quốc ở Nhật Bản, khi sự thống nhất chính trị trước khi Mạc phủ Tokugawa thành lập. Nó kéo dài
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu _Khánh Trường_ thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh
(1842 hoặc 1844 - 19/7/1868) là đội trưởng đội 1 Shinsengumi - lực lượng cảnh sát đặc biệt ở Kyoto trong suốt giai đoạn cuối của Mạc Phủ. Anh nổi tiếng là một tay kiếm
Chữ [[Kanji "Saigō Takamori".]] , nguyên danh là , là một trong những samurai giàu ảnh hưởng nhất trong lịch sử Nhật Bản, sống vào cuối thời kỳ Edo và đầu thời kỳ Minh Trị.