✨Sei Shōnagon

Sei Shōnagon

, ( 966–1017/1025) là một tác giả, nhà thơ người Nhật, và là nữ quan trong phủ của Hoàng hậu Teishi (Sadako) vào khoảng năm 1000, giữa thời kỳ Heian. Bà là tác giả của cuốn .

Tên gọi

Tên thật của Sei Shōnagon cho đến nay vẫn là ẩn số. Theo phong tục trong giới quý tộc thời đó, người ta hay gọi một nữ quan bằng một biệt danh lấy từ người chồng hoặc người cha đảm nhiệm một chức quan trong triều đình. Tên gọi có nguồn gốc từ tên họ "Kiyohara" của người cha (cách đọc tiếng Nhật Bản địa của chữ kanji đầu tiên là kiyo, trong khi cách đọc Hán Nhật là sei), trong khi đề cập đến chức quan trong chính quyền.

Tên thật của cô là một chủ đề tranh luận giữa các học giả, trong đó tên gọi là một phương án khả thi.

Niên thiếu

Người ta biết được rất ít thông tin về Sei Shōnagon, tất cả những gì ta biết đều dựa trên những văn bản mà bà viết. Bà là con gái của Kiyohara no Motosuke, một học giả và nhà thơ waka nổi tiếng, là một viên quan cấp tỉnh. Ông nội của bà, Kiyohara no Fukayabu cũng là một nhà thơ waka. Gia đình của bà là những quý tộc bậc trung và gặp nhiều khó khăn về tài chính, có thể vì họ không được ban cho một chức quan có bổng lộc cao.

Bà kết hôn cùng Tachibana no Norimitsu, một viên quan trong triều đình ở tuổi 16, và sinh một con trai, tên là Norinaga. Năm 993, ở tuổi 27, khi bà bắt đầu phục vụ trong phủ của Hoàng hậu Teishi, vợ của Thiên hoàng Ichijō, bà có thể đã li hôn. Khi kết thúc thời gian phụng sự trong triều đình, bà có thể đã kết hôn với Fujiwara no Muneyo, thống đốc tỉnh Settsu, và có một con gái tên là Koma no Myobu, mặc dù một vài bằng chứng gợi ý rằng bà đã xuất gia làm ni cô.

Sato Hiroaki đặt nghi vấn liệu nữ quan Sei và Norimitsu có thực sự kết hôn không, hay chỉ là những người bạn thân, "các nam và nữ quan trong triều đình trêu chọc họ bằng cách gọi ông này là người anh lớn và bà là người em gái bé nhỏ."

Đối địch

Shōnagon cũng được biết tới với việc cạnh tranh cùng một nữ quan, đồng thời là nhà văn đương thời Murasaki Shikibu, tác giả của Truyện kể Genji, người phụng sự cho Hoàng hậu Shoshi, vợ thứ hai của Thiên hoàng Ichijō. Murasaki Shikibu đã viết về Shōnagon - có vài nét cay độc, tuy thừa nhận năng khiếu văn chương của Shōnagon - trong cuốn nhật kí của bà, Nhật kí Murasaki Shikibu.

Văn chương

nhỏ|206x206px|Sei Shōnagon trong một bức vẽ cuối thế kỷ 13 nhỏ|200x200px|Sei Shōnagon trong một bức vẽ cuối thế kỷ 17 nhỏ|308x308px|Sei Shōnagon, vẽ bởi [[Kikuchi Yosai (1788–1878)]] Shōnagon trở nên nổi tiếng bởi tác phẩm Truyện gối đầu, một tuyển tập các danh sách, tản văn, thơ, bài tường thuật và than phiền được viết trong những năm tháng phụng sự triều đình, một thể loại tạp văn được gọi là zuihitsu (tùy bút). Truyện gối đầu được lưu hành trong triều đình, và tồn tại trong vài trăm năm trên các bản viết tay. Trong lần đầu tiên được in trong thế kỷ 17, có tồn tại các phiên bản khác nhau: thứ tự các bài viết có thể đã được thay đổi bởi những người ghi chép với các bình luận và đoạn văn được thêm vào, chỉnh sửa hoặc lược bỏ. Có bốn dị bản của văn bản này được các học giả hiện đại biết đến, trong đó có hai phiên bản được coi là đầy đủ và chính xác nhất là các văn bản Sankanbon và Nōinbon. Những người biên tập sau này đã đưa vào phần đánh số và bộ phận của phần; văn bản Sankanbon được chia thành 297 phần, với 29 phần bổ sung "phụ bản" có thể đại diện cho các bổ sung sau này của tác giả hoặc người sao chép.

Trong Truyện gối đầu, Shōnagon viết về Hoàng hậu Teishi, và nỗi thất vọng sau khi cha của bà qua đời, khi Fujiwara no Michinaga gả con gái Shōshi cho Ichijō, và sau đó trở thành vương phi, khiến Teishi chỉ là một trong hai hoàng hậu. Vì nguy cơ hỏa hoạn, Hoàng gia không sống trong Cung điện Heian. Hoàng hậu Teishi sinh hoạt trong một phần của Chūgushiki, nơi phụng sự cho các hoàng hậu, và đã chuyển đến nơi cư trú khác khi các hoàn cảnh thay đổi. Shōnagon viết với sự thoải mái rõ ràng, không gò ép về các sự kiện tại triều đình, nhấn mạnh hoặc bỏ qua những thực tế khắc nghiệt như cái chết của Teishi khi sinh con vào năm 1000. Theo kiểu cách phổ biến, viết văn một cách nồng nhiệt hơn sẽ bị coi là không có phong cách. Tác phẩm của cô được coi là dí dỏm, mô tả triều đình trang nhã của Teishi từ một góc nhìn chi tiết, phiếm luận.

Shōnagon được các cận thần đương thời cho rằng có trí nhớ tuyệt vời. Văn chương của bà bao gồm nhiều hồi tưởng về các sự kiện trước đó tại triều đình, thường bao gồm các chi tiết chính xác như quần áo người mặc, mặc dù được viết ở thời điểm vài năm sau khi các sự kiện diễn ra. Bà cũng được biết đến là đặc biệt giỏi trong việc nhớ lại và trích dẫn một bài thơ cổ điển cho phù hợp với tình huống, ngay cả theo các tiêu chuẩn của một triều đình, trong đó kiến ​​thức về kinh điển thơ ca được coi là một kỹ năng cần thiết.

Các mục trong Truyện gối đầu về hùng biện bao gồm lời khuyên và các ý kiến ​​về những cuộc trò chuyện, lời thuyết giảng, và viết thư tay. Shōnagon ủng hộ ngôn ngữ thuần túy và sử dụng nghiêm ngặt các quy cách trong các phần tư vấn về cuộc trò chuyện, nhưng cũng viết những đoạn văn điểm xuyết ngắn thể hiện sự ứng đối hóm hỉnh và nhượng bộ hòa đồng lẫn nhau giữa các nữ quan của hoàng hậu và giữa các quý bà và quý ông. Shōnagon cũng tiếp xúc với chủ đề thuyết giảng; các tu sĩ thuyết giảng nên có vẻ ngoài ưa nhìn và được dạy dỗ tốt về cách hùng biện, với những kí ức tuyệt vời, và khán giả của họ nên là những cá nhân chăm chú và lịch sự, không đến để tán tỉnh hay khoe khoang. Sau đó, bà cung cấp thông tin chi tiết về việc viết thư, cung cấp các quy định cho giấy, thư pháp, quà tặng và vật đáng giá mang theo, và đánh giá cao giá trị của các lá thư là quà tặng của tình yêu. Đặc biệt, Shōnagon đặc biệt chú ý đến "thư tay sau buổi sáng". Trong xã hội phong kiến Nhật Bản, quan hệ tình dục khác giới giữa các cận thần là bất hợp pháp nhưng xảy ra rất thường xuyên. Một yêu cầu xã hội là người đàn ông gửi một bài thơ trên giấy đẹp với một bông hoa hoặc nhành cây trang trí cho người phụ nữ, và cô ấy trả lời. Shōnagon đi sâu về vấn đề này trong phần tiểu mục mang tên, "Những điều làm cho một người bối rồi."

Một trong những bài waka của bà được đưa vào trong tuyển tập nổi tiếng Ogura Hyakunin Isshu ở vị trí số 62.

Những năm cuối đời

Không có chi tiết gì về cuộc đời của Shōnagon sau năm 1017, và rất ít ghi chép về bà sau cái chết của Hoàng hậu Teishi / Hoàng hậu Sadako năm 1000. Theo một tường thuật truyền thống, bà sống trong những năm cuối đời nghèo khổ như một ni cô. Một tường thuật truyền thống khác ghi rằng bà đã kết hôn với Fujiwara no Muneyo, thống đốc tỉnh Settsu, sau khi kết thúc thời gian phụng sự triều đình, và có con gái, Koma no Myobu. Truyện gối đầu được cho là đã hoàn thành vào khoảng giữa năm 1001 và 1010, khi Shōnagon đã nghỉ hưu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, ( 966–1017/1025) là một tác giả, nhà thơ người Nhật, và là nữ quan trong phủ của Hoàng hậu Teishi (Sadako) vào khoảng năm 1000, giữa thời kỳ Heian. Bà là tác giả của
nhỏ|Bức họa nữ văn sĩ [[Sei Shōnagon vào cuối thế kỉ 17.]] là một tập truyện nói về những quan sát và suy ngẫm của nữ văn sĩ Sei Shōnagon trong khoảng thời gian bà
**_Những điều đáng ghét_** là một trích đoạn được trích từ tác phẩm _Truyện Gối đầu_ của Sei Shōnagon, một nữ quan kiêm văn sĩ cung đình Nhật Bản sống vào giữa thời kỳ Heian
nhỏ|[[Murasaki Shikibu đã viết tác phẩm nhật ký của mình trong khoảng thời gian từ năm . Bà đã được mô tả trong bức vẽ năm của Komatsuken.]] là một tiêu đề chung cho tất
**Thời kỳ Heian** (, _Heian-jidai_, âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là
nhỏ|263x263px|Một bản họa _benizuri-e, Mitate no Soga: Juro, Goro, and Yoshihide,_ [[Torii Kiyonobu II (khoảng 1744–1751)]] là một loại mộc bản họa _ukiyo-e_ "nguyên thủy" của Nhật Bản. Trong đó màu sắc được sử dụng
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
thumb|Trường hận ca được ghi trong [[Đường thi tam bách thủ.]] **"Trường hận ca"** (chữ Hán: 長恨歌; Kana: ちょうごんか; tiếng Anh: _The Song of Everlasting Regret/Sorrow_; tiếng Pháp: _Chant des regrets éternels_) là một bài
là Hoàng hậu của Thiên hoàng Ichijō. Bà xuất hiện trong tác phẩm văn học kinh điển là _Truyện gối đầu_ được viết bởi nữ văn sĩ cung đình là Sei Shōnagon. Bà là con
, là gia tộc hậu duệ của gia tộc Nakatomi thông qua Ame-no-Koyane-no-Mikoto, là một gia tộc nhiếp chính quyền lực ở Nhật Bản. Gia tộc được mở đầu khi người sáng lập, Nakatomi no
nhỏ|Một người phụ nữ trong trang phục _jūnihitoe_ , tức "mười hai lớp áo" - là loại trang phục dành riêng cho phụ nữ hoàng gia và quý tộc Nhật Bản vào thời Heian. Trên
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
## Nhận xét sơ bộ Chỉ có các nhà văn và nhà thơ Nhật Bản được đưa vào danh sách sau đây mà thôi. Thuật ngữ _nhà văn_, giống như thuật ngữ _văn học_, được
thumb|Thẻ bài thơ số 1 thumb|Ogura shikishi bởi Teika hay tên tiếng Việt là **_Thơ trăm nhà_**, là hợp tuyển thơ cổ Nhật Bản gồm 100 bài thơ _Waka_ (_hoà ca_) của 100 nhà thơ.
nhỏ|292x292px| Akazome Emon trong bản vẽ năm 1765, vẽ bởi [[Komatsuken.]] là một nữ thi sĩ _waka_ của Nhật Bản và là nhân vật lịch sử sống ở giữa thời kỳ Heian. Bà được liệt
là một gia tộc hùng mạnh thuộc vùng Tohoku của Nhật Bản trong thời kỳ Heian, được thành lập bởi Hoàng tử Toneri, con trai của Thiên hoàng Tenmu (631–686). Kiyohara no Fusanori (sống ở
là vị quan nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Dưới sự lãnh đạo của ông, gia tộc Fujiwara đã nắm quyền kiểm soát nền chính trị đất nước trong một thời gian dài. ##
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
**_Truyện kể Genji_** , là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại
thumb|[[Duchess de la Ferte và Vua Louis XV (trên đùi).]] **Phó mẫu** (chữ Hán: 傅母 hay 傅姆), cũng gọi nôm na **Nữ gia sư**, là một dạng nghề nghiệp hay chức danh dành cho các
, hay , là con gái lớn của Fujiwara no Michinaga và là Hoàng hậu Nhật Bản tại vị từ năm 1000 đến năm 1011. Bà tiến cung cho Thiên hoàng Ichijou khi mới 12
là một nhà thơ quý tộc của Nhật Bản vào thời kỳ Heian. Xuất thân trong một gia đình văn học lớn, ông gọi Kiyohara Fukayabu (tác giả bài số 36 trong tập _Ogura Hyakunin
là nhà thơ Nhật Bản vào thời kỳ Heian. Ông là tác giả của bài thơ số 36 trong tập _Ogura Hyakunin Isshu_ và là người đóng góp 17 bài thơ vào tập _Kokin Wakashū_.
là nhà thơ _waka_ Nhật Bản vào giữa thời kỳ Heian. Một trong những bài thơ của ông nằm trong tập thơ nổi tiếng _Ogura Hyakunin Isshu_. Ông có một tập thơ cá nhân mang
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
là Thiên hoàng thứ 66 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Nhất Điều kéo dài từ năm 986 đến năm 1011. ## Tường thuật truyền thống Trước khi
là một nữ mangaka người Nhật Bản, nguyên quán thành phố Shimizu (nay là quận Shimizu, thành phố Shizuoka), tỉnh Shizuoka. Lấy ý tưởng từ tuổi thơ của chính mình, Sakura đã sáng tác loạt
thumb|Sơ đồ của Bình An kinh cho thấy vị trí của cung điện cũng như cung điện tạm thời Thổ Ngự Môn điện sau phát triển thành hoàng cung Kyoto hiện tại. Phía ngoài Đại
thumb|upright=1.5|_[[Ki no Tomonori_ bởi Kanō Tan'yū, 1648]] thumb|upright=1.5|_Bức tranh [[Quý bà Ise_ bởi Kanō Tan'yū, 1648.]] right|thumb|upright=1.5|_[[Kiyohara no Motosuke_ bởi Kanō Yasunobu, 1648]] right|thumb|upright=1.5|_[[Fujiwara no Kiyotada_ bởi Kanō Naonobu, 1648]] (Tam thập lục ca tiên)
là một cuộn tranh (cuộn tranh truyền thống của Nhật Bản) được vẽ vào giữa thế kỉ 13. Bên cạnh việc lấy cảm hứng từ cuốn nhật ký riêng tư () của Murasaki Shikibu, một
nhỏ| Nữ văn sĩ [[Sei Shōnagon đứng đằng sau tấm bình phong _misu_ ]] nhỏ|_Bình phong misu_ treo bên ngoài ngai vàng trong Hoàng cung _Shishin-den_ của Hoàng cung Kyoto nhỏ|Sudare cho tầng lớp bình
phải|nhỏ| _Kakigri_ là một món tráng miệng đá bào Nhật Bản có siro và một chất tạo ngọt, thường là sữa đặc. ## Lịch sử Nguồn gốc của _kakigōri_ bắt nguồn từ thời Heian trong