✨San đất

San đất

nhỏ|phải|Mô hình mô phỏng địa hình tự nhiên trước san (dạng [[Mô hình thông tin xây dựng (BIM) và mô hình thiết kế san đất nền.]] nhỏ|phải|Mặt bằng cao độ tự nhiên của một thửa đất được quy hoạch san, dựa trên [[đường đồng mức (chia nhỏ tới 0,1 m cao độ) trong bản đồ địa hình, chia theo lưới ô vuông cạnh 12,5 m.]] Công tác san đất, (land grading), hay còn gọi là san mặt bằng hoặc san lấp mặt bằng, là công việc thi công san phẳng nền đất một công trình xây dựng hay một mặt bằng quy hoạch, từ một mặt đất có địa hình tự nhiên cao thấp khác nhau. San phẳng là việc đào những chỗ đất cao nhất trong nội tại vùng đất đó vận chuyển đến các vùng thầp nhất và đắp vào những chỗ thấp đó, nhằm làm phẳng lại bề mặt địa hình vùng đất đó theo chủ định trước của con người (mặt thiết kế định trước, có kể đến độ dốc thoát nước bề mặt). Như vậy bản thân công tác san đất là một công tác đất (earthwork), thường bao gồm các công tác đào đất (cut or excavating), vận chuyển đất (earthmoving) và đắp đất hay lấp đất (fill).

Trong công tác san đất, đầu tiên, đất thi công chủ yếu được lấy ngay bên trong phạm vi công trường. Lượng đất thừa hay thiếu phải liên hệ với bên ngoài phạm vi công trường, thường chỉ là nguồn bổ trợ hay chỉ chiếm khối lượng nhỏ, hoặc thậm chí không có (như khi san cân bằng đào đắp).

Phân loại

Thường có hai dạng công tác san đất: san theo điều kiện khống chế trước cốt cao độ mặt bằng sau san, mà không chú ý lắm đến khối lượng đất thừa hay thiếu, san theo yêu cầu về khối lượng đất khi san, bao gồm các trường hợp: san cân bằng khối lượng đào với đắp, san với điều kiện chủ định chừa ra một khối lượng đất sau san (đào nhiều hơn đắp) hoặc cố ý bổ sung thêm một lượng đất trước san (đắp nhiều hơn đào).

Thiết kế thi công công tác san

Trong cả hai dạng công tác san, thì việc thiết kế thi công san đất đều đòi hỏi phải được thực kiện lần lượt qua hai bước cơ bản như sau: thiết kế mặt bằng san (bước này nhằm xác định khối lượng đất phải thi công, hướng và cự ly vận chuyển đất trung bình từ vùng đào sang vùng đắp trong nội bộ công trường.) thiết kế biện pháp thi công san (thiết kế biện pháp thi công cụ thể cho công tác san đất, sau khi đã biết được khối lượng đất phải thi công và cự ly vận chuyển chúng trong khi san)

Thiết kế mặt bằng san

nhỏ|phải|Cách xác định cao độ tự nhiên tại mắt lưới ô vuông thiết kế san, theo tỷ lệ khoảng cách đến 2 đường đồng mức hai bên. Bản đồ địa hình có thể trực tiếp cho biết khái quát độ cao của mặt đất tự nhiên trong vùng địa hình, qua các đường đồng mức trong bản đồ. Tuy vậy, để tính toán khối lượng đất thi công chính xác đến mức có thể chấp nhận được thì cần phải xác định chi tiết cao độ của một loạt các điểm thuộc mặt đất tự nhiên, mà có thể không thuộc các đường đồng mức.

-Mô phỏng thực địa

nhỏ|phải|Vẽ lại gần đúng các đường đồng mức thành các đường gãy khúc qua các điểm đặc trưng giao cắt lưới ô vuông thiết kế san. nhỏ|phải|Lưới ô tam giác (tam giác vuông cân) để thiết kế mặt bằng san. Trường hợp địa hình khu vực mặt bằng san đơn giản nhất là trường hợp trên bản đồ địa hình của vùng, các đường đồng mức gần như thẳng và đồng thời song song với nhau. Trong trường hợp này, dùng một mặt cắt duy nhất cắt vuông góc qua tất cả các đường đồng mức có thể thể hiện toàn bộ cao độ của tất cả các điểm mặt đất tự nhiên trên khu vực mặt bằng được xét. Do đó việc xác định khối lượng đất trong trường hợp này đơn giản là việc tính toán khối tích của từng thỏi đất chạy dài và có tiết diện gần như không đổi. Đây được gọi là phương pháp xác định khối lượng đất theo mặt cắt. Trường hợp mặt bằng phức tạp hơn đó là trường hợp các đường đồng mức có hơi uốn lượn nhưng vẫn tương đối song song. Khi đó dùng một mặt cắt không thể đại diện hết được tất cả các cao độ của toàn bộ mặt bằng địa hình tự nhiên. Trường hợp này phải chia vùng mặt bằng định quy hoạch thành lưới ô vuông, dọc theo phương của đường đồng mức, với khoảng cách các mắt lưới đủ nhỏ để có thể chia nhỏ các đường đồng mức thành từng đoạn tương đối thẳng liên tục và có độ dài bằng nhau. Khi đó coi gần đúng mặt đất trong mỗi ô lưới là một mặt phẳng tạo bởi các cao độ mắt lưới. Các cao độ mắt lưới được xác định theo cách làm ở bài đường đồng mức. Khối tích của từng ô đất được tính bằng tích số giữa cao độ trung bình của các mắt lưới ở 4 góc ô với diện tích hình chiếu bằng của ô lưới. Đây được gọi là phương pháp xác định khối lượng đất theo lưới ô vuông. *Trường hợp mặt bằng phức tạp nhất là khi các đường đồng mức cong uốn lượn mà không song song với nhau, khoảng cách giữa chúng thay đổi liên tục tại mọi vị trí. Trong trường hợp này mạng lưới ô vuông không thể mô phỏng được đúng hình dạng địa hình thực tế, vì trong mỗi ô mặt đất tự nhiên phức tạp nếu quy về một mặt phẳng thì sai số rất lớn (4 điểm mắt lưới nằm trên một tứ giác ghềnh, chứ không đồng phẳng). Khi này, để mô phỏng chính xác với địa hình thực tế hơn, thì trong mỗi ô vuông mặt đất tự nhiên được quy gần đúng về hai mặt phẳng nghiêng, (mỗi mặt tạo 3 trong 4 cao độ mắt lưới của ô vuông), có hình chiếu bằng là hai nửa ô vuông, hình tam giác vuông có chung cạnh huyền là đường chéo ô vuông. Chia lưới ô vuông theo các đường chéo của ô, sao cho các đường chéo này song song nhất với phương của đường đồng mức gần đó nhất, thì đảm bảo mô phỏng thực tế chính xác hơn. Khối tích của từng ô đất tam giác được tính bằng tích số giữa cao độ trung bình của các mắt lưới ở 3 góc ô với diện tích hình chiếu bằng của ô lưới tam giác. Đây được gọi là phương pháp xác định khối lượng đất theo lưới ô tam giác.

-Xác định mặt bằng thiết kế sau san

Dạng san theo điều kiện khống chế trước cốt cao độ mặt bằng sau san: thì người chủ đầu tư thường khống chế trước cao độ trung bình của mặt băng san, nên nhà thầu không cần phải tính toán cao độ này. Dạng công tác san đất theo yêu cầu về khối lượng đất khi san: :San theo điều kiện cân bằng đào đắp (khối lượng đất ngoài V0=0): Khối lượng đất đào phải cân bằng với khối lượng đất đắp. Cũng có nghĩa là tổng khối lượng đất trên vùng mặt bằng quy hoạch, tính từ mặt thủy chuẩn trở lên, được phân bố lại trên cùng một diện tích hình chiếu bằng, với cao độ trung bình H0 so với mặt thủy chuẩn. :Nếu dùng phương pháp mặt cắt thì cao độ trung bình: H0=ΣSi/B ::Với ΣSi là tổng diện tích tiết diện phía trên mặt thủy chuẩn, của mọi thỏi đất chạy dọc theo đường đồng mức trong vùng mặt bằng quy hoạch. Còn B là bề ngang của vùng quy hoạch (bề vuông góc với các đường đồng mức). :Nếu dùng phương pháp lưới ô vuông hay lưới ô tam giác, thì cao độ trung bình được tính bằng tỷ số giữa tổng khối tích của mọi ô lưới, tính từ mặt thủy chuẩn trở lên, với tổng diện tích hình chiếu bằng của vùng quy hoạch. Tổng khối tích của mọi ô lưới lại được tính qua các cao độ mắt lưới, tính từ mặt thủy chuẩn. :Trường hợp lưới ô vuông: H0=(ΣH(1)j+2ΣH(2)j+4ΣH(4)j)/4m :Trường hợp lưới ô tam giác: H0=(ΣH(1)j+2ΣH(2)j+3ΣH(3)j+...+6ΣH(6)j+...+8ΣH(8)j)/3n. ::Với H(1)j, H(2)j, H(3)j, H(4)j,..., H(6)j,..., H(8)j, là các cao độ tự nhiên tại mắt lưới ô vuông mà có 1, 2, 4 ô vuông quy tụ xung quanh, hay các cao độ tự nhiên tại mắt lưới ô tam giác mà có 1, 2, 3,...,6,...,8 ô tam giác quy tụ xung quanh. Với m là tổng số các ô vuông có trong vùng mặt bằng quy hoạch. Còn n là tổng số các ô tam giác có trong vùng mặt bằng quy hoạch. :San với điều kiện chừa đất ra sau san, hay thêm đất từ ngoài khi san (khối lượng đất ngoài V0≠0): độ cao trung bình của mặt bằng san được tính bằng cao độ trung bình khi san cân bằng đào đắp có thêm hay bớt chênh lệch độ cao do lượng đất thêm vào hay bớt đi đem lại. Nếu khối lượng đất ngoài V0≠0 đã được xác định trước, thì khi đó cao độ trung bình H0 được tính theo các công thức sau: :Trường hợp lưới ô vuông: H0=((ΣH(1)j+2ΣH(2)j+4ΣH(4)j)/4m)±(V0/(ma²)) :Trường hợp lưới ô tam giác: H0=((ΣH(1)j+2ΣH(2)j+3ΣH(3)j+...+6ΣH(6)j+...+8ΣH(8)j)/3n)±(2V0/(na²)). ::Với a là khoảng cách các mắt lưới (cạnh hình chiếu bằng của ô lưới).

Tuy nhiên, nếu chỉ san toàn bộ mặt bằng theo cùng một cốt cao độ trung bình H0, thì không thể đảm bảo việc thoát nước chảy trên bề mặt khu quy hoạch (như nước mưa,...). Cần phải tạo cho khu vực quy hoạch thành những mặt dốc thoát nước, với độ dốc được quy định trước. Để tương quan khối lượng đất thi công không đổi, thì việc chỉnh mặt bằng san theo độ dốc thiết kế quanh cao độ trung bình H0 phải đảm bảo cân bằng đào đắp trong khi chỉnh độ dốc. Tại các điểm trọng tâm của mỗi mặt dốc thiết kế ta lấy cao độ thiết kế đúng bằng cao độ trung bình H0, sau đó chỉnh thêm và bớt các cao độ thiết kế ở hai phía của mỗi điểm trọng tâm trên, những lượng chênh cao tính theo tỷ lệ độ dốc, sao cho đảm bảo điều kiện cân bằng đào đắp. Cao độ thiết kế của các điểm hai bên điểm trọng tâm mặt dốc thiết kế là: :htkj = H0±itkl0. :Với itk là độ dốc thiết kế cho trước theo trong nhiệm vụ thiết kế (%), và l0 là khoảng các từ điểm cần xác định cao độ thiết kế tới trọng tâm mặt dốc thiết kế. Như vậy, đến đây đã xác định được chính xác mặt thiết kế sau san. Lúc này tại mọi vị trí của mặt bằng quy hoạch đều có hai cao độ: cao độ tự nhiên (của mặt đất tự nhiên htnj) và cao độ thiết kế (của mặt san thiết kế htkj).

Ngoài ra, để đảm bảo sự ổn định của các mái đất sau khi san ở cả phần đào lẫn phần đắp, tránh sạt lở công trình đất sau san, thì khi thiết kế mặt bằng san, cần phải thiết kế các mái ta-luy viền quanh mặt thiết kế sau san, theo độ dốc cho phép tới hạn. Độ dốc cho phép tới hạn là độ dốc tối đa mà mái ta-luy đất đào hay đắp có thể có, mà không gây ra sự trượt của mái đất.

Trong vùng mặt bằng san sẽ xuất hiện những đường ranh giới giữa các khu vực đào đất với các khu vực đắp đất, được gọi là ranh giới đào đắp O-O. Ranh giới O-O này là giao tuyến của mặt địa hình tự nhiên với mặt san thiết kế.

-Thiết kế an toàn mái dốc ta-luy

Theo lý thuyết cơ học đất của Nikolai Nikolaevich Maslov (1898-1986): *hệ số mái dốc ta-luy tgα = (tgψt)/m :tgψt = Ft = tgφ + C/Ptn = tgφ + C/(γH) Trong đó: φ (o) là góc ma sát trong của đất đào hay đất thiết kế đắp ta-luy; C (T/m²) là lực dính của đất đào hay đất thiết kế đắp ta-luy; γ (T/m³) là dung trọng riêng của đất đào hay đất thiết kế đắp ta-luy; H (m) là chiều sâu cột đất đào hay đắp ta-luy (tính từ cao độ thiết kế đỉnh ta-luy đến cao độ chân ta luy (cũng là điểm xét hệ số mái dốc ta-luy), m (≥1) là hệ số ổn định mái dốc (trong trường hợp đào mái ta-luy đất liền thổ ổn định trên 10 năm lấy m=1, còn trường hợp đắp ta-luy lấy m=1,5-1,8).

-Tính toán khối lượng công tác

Độ cao công tác hctj của mỗi điểm trên mặt bằng quy hoạch là hiệu số giữa cao độ tự nhiên của điểm đó với cao độ thiết kế của điểm đó: hctj = htnj - htkj. Khu vực nào đó của mặt bằng quy hoạch là khu vực đào đất nếu như tất cả mọi độ cao công tác của các điểm trong khu vực đều có giá trị dương hctj > 0 (trong khu vực đó, mặt đất tự nhiên cao hơn mặt san thiết kế), và ngược lại, các khu vực đắp có độ cao công tác âm: hctj < 0 (trong khu vực đó, mặt đất tự nhiên thấp hơn mặt san thiết kế). Những chỗ có hctj = 0 thì nằm trên ranh giới đào đắp. Như vậy, tùy phương pháp mô phỏng mà ta có thể xác định được khối lượng đất công tác, theo đặc trưng của hình mô phỏng.

Với phương pháp mặt cắt, việc xác định khối lượng đất đào và đất đắp đơn giản là việc nhân từng phần diện tích tiết diện đất công tác, chính là các phần kẹp giữa hai đường: đường cao độ mặt đất tự nhiên và đường cao độ mặt đất thiết kế sau san, với lại chiều dài các thỏi đất (chiều dài dọc theo đường đồng mức của thửa đất cần san). Nếu phần diện tích tiết diện công tác nằm dưới đường cao độ mặt đất tự nhiên thì phần khối lượng đất đó là đất đào, còn ngược lại, phần diện tích này nằm trên đường cao độ tự nhiên thì là khối lượng đất đắp. Ranh giới đào đắp O-O, trong phương pháp này, chỉ là những giao điểm, trên mặt cắt điển hình, của hai đường: đường cao độ mặt đất tự nhiên và đường cao độ mặt đất thiết kế sau san.

Các phương pháp chia mạng ô vuông và mạng ô tam giác, khối lượng đất công tác được tính qua độ cao công tác ở vị trí các mắt ô lưới. Khi tính khối lượng công tác trên từng ô lưới, kể cả mạng ô vuông hay mạng ô tam giác, thì đều sẽ thấy rằng có ba loại ô lưới: loại ô có tất cả các độ cao công tác tại mắt lưới dương hctj > 0, là loại ô nằm hoàn toàn trong vùng đào; loại ô có tất cả các độ cao công tác tại mắt lưới âm hctj < 0, là loại ô nằm hoàn toàn trong vùng đắp; *loại ô chứa cả mắt lưới có cao độ công tác vừa âm vừa dương, có cả mắt lưới có hctj > 0 lẫn mắt lưới có hctj < 0, là loại ô nằm đè lên ranh giới đào đắp O-O (ranh giới đào đắp cắt qua những ô này).

Với hai loại ô nằm hoàn toàn trong vùng đào hay vùng đắp, thì khối lượng công tác, (được tính như nhau nhưng trái dấu: ô đào thì dương còn ô đắp thì âm), bằng tích số giữa độ cao trung bình của 3 (trường hợp ô tam giác) hay 4 (trường hợp ô vuông) độ cao công tác tại các mắt lưới ở góc ô nhân với diện tích hình chiếu bằng của ô lưới. :Mạng ô vuông: Vi = (hct1+hct2+hct3+hct4)a²/4 :Mạng ô tam giác: Vi = (hct1+hct2+hct3)a²/6 ::Với Vi là khối lượng công tác trong từng ô lưới, hctj là độ cao công tác tại mắt lưới thứ j của ô lưới. nhỏ|Ô lưới tam giác vắt ngang đường O-O Với loại ô nằm vắt ngang ranh giới đào đắp O-O: trường hợp mạng lưới ô vuông, khối lượng công tác ở mỗi ô vuông tính toán như tổ hợp của hai ô tam giác thông thường, như vậy ta chỉ cần xét tới mạng ô lưới tam giác mà thôi. Trong trường hợp này, chắc chắn một trong 3 đỉnh mắt ô lưới sẽ có độ cao công tác (gọi cao độ công tác đỉnh này là hct1) trái dấu với các cao độ công tác tại hai đỉnh còn lại (hct2, hct3). Đường ranh giới đào đắp O-O chia ô tam giác đang xét thành hai nửa: Phía cao độ hct1 khối tích đất công tác có dạng một hình chóp tam giác (VchópΔ) với chiều cao là hct1, và được tính qua diện tích hình chiếu bằng SOO1. Qua biến đổi lượng giác SOO1 trở thành phụ thuộc vào các độ cao công tác tại các mắt ô lưới: :SOO1 = (hct1)²a²/2(hct1+hct2)(hct1+hct3). :Do đó, VchópΔ = (hct1)³a²/6(hct1+hct2)(hct1+hct3). nhỏ|trái|Cách tính phần còn lại của ô lưới tam giác nằn trên ranh giới O-O Phía các cao độ công tác hct2, hct3, có khối tích là V1 được tính thông qua việc thêm một hình trung gian V2, tạo ra bằng cách giả thiết nâng mặt đất tự nhiên lên cao thêm một lượng chênh cao là hct1. Hình trung gian V2 kết hợp với hình VchópΔ, tạo thành một lăng trụ tam giác có chiều cao là hct1. Gọi thể tính của hình chóp lớn nằm phía trên mức cao độ của ranh giới đào đắp O-O là: :Vchóp lớn = V1+V2. :Thêm VchópΔ vào ta có: V = Vchóp lớn+VchópΔ = V1+V2+VchópΔ = V1+Vlăng trụ. :Suy ra: V1 = Vchóp lớn+VchópΔ-Vlăng trụ. :Với Vlăng trụ =a²hct1/2. :Và Vchóp lớn = (2hct1+hct2+hct3)a²/6. Như vậy là đã xác định xong từng phần khối lượng đất đào hoặc đắp của ô lưới tam giác nằm trên ranh giới đào đắp, đó là một trong hai thể tích: VchópΔ, V1.

Sau khi tính khối lượng đất cần công tác bên trong mặt bằng quy hoạch xong, thì cần phải xác định từng phần khối lượng của đất đào hoặc đắp của các mái ta-luy nằm xung quanh bên rìa mặt bằng san. Các khối lượng này cũng được phân làm hai loại: khối lượng ta-luy đào và khối lượng ta-luy đắp. Đất công tác của hai loại này được bù trừ lẫn nhau, lấy đất ở ta-luy đào để đắp sang ta-luy đắp. Tuy nhiên trong phần lớn các trường hợp, hai khối lượng này thường không cân bằng với nhau, khi đó lượng đất ta-luy thừa hay thiếu (thực ra mới chỉ là trong tính toán) được giả thiết là đem tôn đều lên trên toàn bộ mặt bằng san nếu thừa (kể cả trên mặt các mái ta-luy) hay bóc đất ở mặt bằng san đi đều một lượt chiều dày nhất định (kể cả trên các mái ta-luy) để bù vào nếu thiếu. Khi đó mặt thiết kế san, và khối lượng đào đắp tính toán cùng với ranh giới đào đắp sẽ thay đổi. Mặt thiết kế san mới song song với mặt thiết kế san cũ. Bài toán san trở thành san với một lượng V0 khác 0, và phải tính lặp nhiều lần cho đến khi đạt tới sự cân bằng đào đắp. Do đó trong thực tế thường ít có bài toán san nền cân bằng đào đắp thuần túy.

San đất theo điều kiện khống chế trước cao độ trung bình H0, mặt bằng thiết kế san đã được định trước, khối lượng đất công tác cũng được tính hoàn toàn giống như dạng san theo yêu cầu về khối lượng: đó chính là khối lượng kẹp giữa hai mặt đất tự nhiên và thiết kế sau san.

-Xác định cự ly vận chuyển trung bình

nhỏ|phải|Biểu đồ [[công cơ học|công năng vận chuyển đất san từ vùng đào sang vùng đắp Cu-ti-nôp, qua đó để xác định cự ly vận chuyển trung bình và các hướng vận chuyển từ vùng đào sang vùng đắp.]] Biểu đồ Cutinop là biểu đồ thể hiện công năng vận chuyển đất từ vùng đào sang vùng đắp của mặt bằng san theo 2 hướng dọc và ngang của mặt bằng.

Thiết kế biện pháp san

Trong công tác san đất, các loại máy móc chuyên dụng vừa có khả năng đào vừa có khả năng vận chuyển, là nhóm máy san như: máy ủi, máy cạp, máy san,... là những sự lựa chọn thích hợp. Tuy nhiên, những máy này thường hạn chế bởi khả năng đào, nên nếu công việc san có kết hợp với việc đào đất hố móng với chiều sâu (hay chiều cao) đào lớn thì cần phải kết hợp các máy này với máy đào chuyên dụng, như máy đào gầu nghịch hay máy đào gầu thuận. Khi đó nhóm các máy san chủ yếu làm công đoạn san và vận chuyển đất từ vùng đào sang vùng đắp, còn các máy đào tập trung đào các hố đào sâu đổ đất lên bờ cho các máy san vận chuyển.

Phần mềm thiết kế san

Các phần mềm thiết kế san đất gồm: *AutoCAD Land Desktop của hãng Autodesk, phần mềm chuyên dụng cho các công trình đất, hướng tới thiết lập Mô hình thông tin xây dựng (BIM) trong phần mềm AutoCAD Civil 3D.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|right|Sân Philippe Chatrier của [[Giải quần vợt Pháp Mở rộng được chơi trên mặt sân đất nện.]] **Sân đất nện** là một trong những thể loại sân quần vợt. ## Đặc điểm Sân đất nện
nhỏ|phải|Mô hình mô phỏng địa hình tự nhiên trước san (dạng [[Mô hình thông tin xây dựng (BIM) và mô hình thiết kế san đất nền.]] nhỏ|phải|Mặt bằng cao độ tự nhiên của một thửa
thumb|right|alt=Đây là mặt cắt của các lớp đất từ tầng đá cứng.|Đại diện cho các lớp đất; B đại diện cho [[đá ong, regolith; C đại diện saprolit, phong hóa ít; lớp dưới cùng là
Một vùng đất ngập nước [[Thực vật ngập mặn ở các đầm lầy ven biển. Đầm lầy này nằm ở Everglades, Florida]] Đầm Dơi trong [[Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ tại Việt
**Ván sàn** là thuật ngữ chung cho một lớp phủ cố định của một sàn, hoặc cho công việc lắp đặt một lớp phủ sàn như vậy. **Lớp phủ sàn** là một thuật ngữ để
**Tài sản sở hữu** hay **sản nghiệp** trong bản trích yếu là những gì thuộc về hoặc với một cái gì đó dù là một thuộc tính hoặc là một thành phần của điều được
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
843.993x843.993px|nhỏ|phải|Kích thước tiêu chuẩn của một sân bóng **Sân bóng đá** là một loại hình sân thi đấu của bộ môn bóng đá. Sân thi đấu hình chữ nhật có chiều dài sân lớn hơn
**Luật Đất đai** của nước CHXHCN Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào năm 1987. Luật này quy định về quản lý và sử dụng đất đai. Luật đã được sửa đổi và
**Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình** (hay gọi đơn giản là **sân Mỹ Đình**) là một sân vận động đa năng ở quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Sân có sức chứa
thumb|right|Sân quần vợt trong nhà tại [[Đại học Bath, Anh]] Một **sân quần vợt** là địa điểm mà môn quần vợt được dùng để thi đấu. Trên mặt sân sẽ có một lưới nằm ở
Thuật ngữ **đảng cộng sản** có thể dùng để chỉ bất kỳ đảng nào theo chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, quan điểm về đảng cộng sản của Lenin không chỉ bao gồm việc định
Trong kế toán tài chính, **tài sản** là bất kỳ nguồn lực nào được sở hữu hoặc kiểm soát bởi một doanh nghiệp hay thực thể kinh tế. Nó là tất cả những thứ được
thumb|264x264px|Quang cảnh bên ngoài sân vận động thumb|256x256px|[[Chung kết Cúp UEFA 2003|Trận chung kết Cúp UEFA 2003 được tổ chức tại sân vận động]] **Sân vận động La Cartuja** (), tên chính thức là **Sân
MÔ TẢ SẢN PHẨMCAOKHOIMuối Ngâm Chân Cho Người Bị Đau Nhức Xương Khớp, Mất Ngủ Crevil Foot Badesalz 600g được dùng như một phương thức trị liệu để bảo vệ cơ thể và sức khoẻ.
**Kinh tế học bất động sản** (tiếng Anh: real estate economics) là một phân nhánh của Kinh tế học chuyên nghiên cứu và giảng dạy về bất động sản. Nó giải thích, mô tả và
phải|nhỏ|Cải cách ruộng đất hoàn tất, nông dân đốt văn tự cũ **Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam** là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn
**Tranh chấp đất đai tại Đồng Tâm**, được biết đến trên các phương tiện thông tin đại chúng từ năm 2017 là vụ việc tranh chấp đất đai giữa một số người và chính phủ
Những [[chấn tâm động đất toàn cầu, 1963–1]] **Động đất** hay **địa chấn** (Tiếng Anh: _earthquake_, Chữ Hán: 地震) là sự rung chuyển trên bề mặt Trái Đất do kết quả của sự giải phóng
**Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004**, được biết đến trong cộng đồng khoa học như là **Cơn địa chấn Sumatra-Andaman**, là trận động đất mạnh 9.3 _M_w xảy ra dưới đáy biển
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn
**Sân vận động Nef**, tên chính thức là **Khu liên hợp thể thao Ali Sami Yen - Sân vận động Nef** (), là một sân vận động bóng đá nằm ở khu Seyrantepe của quận
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
Đất canh tác trồng lúa **Đất nông nghiệp** đôi khi còn gọi là **đất canh tác** hay **đất trồng trọt** là những vùng đất, khu vực thích hợp cho sản xuất, canh tác nông nghiệp,
**Phương thức sản xuất châu Á** là một khái niệm của Marx, lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm "Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học" của ông – xuất bản
**Độ phì đất**, **độ phì nhiêu** hay **độ màu mỡ** là khả năng của đất để duy trì sự phát triển và lớn lên của cây trồng trong nông nghiệp, tức là cung cấp môi
**Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất** (tên giao dịch chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất**; IATA: **SGN**; ICAO: **VVTS**) là sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam hiện tại.
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
Trận **động đất tại Ý năm 2009** xảy ra vào sớm thứ hai, 6 tháng 4 năm 2009, làm rung chuyển khu vực miền trung nước Ý, khiến nhiều ngôi nhà và công trình cổ
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
Các loại đất và trầm tích dễ trở thành đất phèn nhất là các loại được hình thành trong phạm vi 10.000 năm trở lại đây, sau sự kiện dâng lên của nước biển (biển
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Sân bay quốc tế Long Thành** (tên chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Long Thành**), là một sân bay quốc tế đang trong quá trình xây dựng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai,
thumb|right|Xói mòn khe rãnh trên cánh đồng lớn ở miền đông nước Đức **Xói mòn đất** là quá trình tự nhiên làm ảnh hưởng đất tất cả các dạng địa hình. Trong nông nghiệp, xói
nhỏ|280x280px| Khai quật cho thấy ô nhiễm đất tại một nhà máy khí đốt không sử dụng ở Anh. **Ô nhiễm** **đất** là một phần biểu hiện của việc suy thoái đất do sự tồn
**Sinh học đất** là các hoạt động của vi sinh vật và hệ động vật và sinh thái học trong đất. Sự sống trong đất, sinh vật đất, động vật trong đất, hoặc edaphon là
thumb|[[Mặt dây chuyền làm từ đất sét kim loại với bột vàng]] **Đất sét kim loại** (metal clay) là một vật liệu trung gian trong thủ công, bao gồm những hạt rất nhỏ của kim
**Sân golf Tân Sơn Nhất** là sân golf nằm cạnh đường băng Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất trên đường Tân Sơn (quận Gò Vấp), TP Hồ Chí Minh, đất thuộc bộ Quốc phòng.
**Kỹ sư theo đơn đặt hàng** là một phương pháp sản xuất đặc trưng bởi: # Hoạt động kỹ thuật cần phải được thêm vào thời gian thực hiện sản phẩm. # Khi nhận được
**Động đất Thổ Nhĩ Kỳ – Syria 2023**, hay **Trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria** (theo cách gọi của báo chí), là hai trận động đất xảy ra ở miền nam và
**Sân vận động Quốc tế Jakarta** () là một sân vận động bóng đá có mái che có thể thu vào ở Tanjung Priok, Jakarta, Indonesia. Đây là sân nhà của câu lạc bộ Persija
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII**, tên chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII** là Đại hội đại biểu toàn quốc
**Khoa học đất** là môn khoa học chuyên nghiên cứu về đất, coi đối tượng nghiên cứu này như là một tài nguyên thiên nhiên trên bề mặt của Trái Đất, nghiên cứu khoa học
Trong kinh tế học, **đất** bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản dưới
nhỏ|phải|Hình ảnh Trái Đất chụp năm 1972. Biểu đồ thời gian lịch sử Trái Đất **Lịch sử Trái Đất** trải dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân Mặt
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
thumb|Mô phỏng máy tính của từ trường Trái Đất trong thời gian phân cực bình thường giữa các lần [[đảo cực địa từ . Các biểu diễn đường sức màu xanh lam ứng với trường
**Vùng đất mua Louisiana** hay **Cấu địa Louisiana** (tiếng Anh: _Louisiana Purchase_; tiếng Pháp: _Vente de la Louisiane_) là vùng đất mà Hoa Kỳ mua, rộng 828.000 dặm vuông Anh (2.140.000 km²) thuộc lãnh thổ