✨Robert Baden-Powell

Robert Baden-Powell

Robert Stephenson Smyth Baden-Powell, Nam tước Baden-Powell OM, GcMG, GCVO, KCB, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1857 và mất ngày 8 tháng 1 năm 1941, còn được gọi là BP, là trung tướng trong Quân đội Anh, nhà văn và đặc biệt là người sáng lập ra phong trào Hướng đạo Thế giới.

Sau khi tốt nghiệp Charterhouse School, Baden-Powell nhập ngũ Anh vào 1876 và được đưa sang Ấn Độ và Châu Phi. Ông còn phục vụ 3 năm trong Sở Mật vụ Anh. Vào 1899, giữa cuộc chiến tranh chống người Boer ở Nam Phi, Baden-Powell đã phòng thủ thành công ở thành Mafeking. Ông xuất ngũ năm 1910.

Baden-Powell là một họa sĩ và tác giả có nhiều tác phẩm. Một vài quyển sách dùng trong quân đội của ông, viết về do thám và trinh sát, được nhiều thiếu niên tìm đọc. Dựa vào những quyển trước, ông viết "Hướng đạo cho trẻ em", xuất bản năm 1908. Trong thời gian viết, ông kiểm tra ý tưởng của mình qua việc tổ chức một cuộc cắm trại đầu tiên trên Đảo Brownsea vào 1907. Buổi cắm trại được xem như mở đầu của phong trào Hướng đạo thế giới.

Sau khi kết hôn với Olave St Clair Soames, ông bà và em gái của ông, Agnes Baden-Powell đã cống hiến hết mình để phát triển phong trào Hướng đạo cũng như phong trào Nữ Thiếu sinh Hướng đạo thế giới. Baden-Powell sống những năm cuối đời ở ở Nyeri, Kenya, nơi ông mất vào năm 1941.

Tiểu sử

Thiếu thời

Robert Baden-Powell chào đời ở số 9 đường Stanhope, phố Paddington ở Luân Đôn vào năm 1857. Ông là người con trai thứ 7 trong gia đình có tám con trai trong 10 đứa con kể từ cuộc hôn nhân thứ ba của Mục sư Baden-Powell (22 tháng 8 năm 1796 – 11 tháng 6 năm 1860), một giáo sư người Savilian dạy hình học ở Đại học Oxford. Cha của ông mất từ lúc ông lên 3 tuổi, và để tưởng nhớ người cha quá cố, họ của ông đổi từ Powell thành Baden-Powell. Ông lớn lên trong vòng tay của mẹ, bà Henrietta Grace Powell (nhũ danh Smyth) (3 tháng 9 năm 1824 – 13 tháng 10 năm 1914), trưởng nữ của Đô đốc William Henry Smith (1788 - 1865). Bà vốn là một người phụ nữ mạnh mẽ và kiên nghị với quyết tâm giúp đỡ các con của bà trở thành những công dân hữu ích cho xã hội. Baden-Powell nói về bà năm 1933: "Toàn bộ bí quyết thành nhân của tôi đến từ mẹ tôi."

Sau khi học trường trung học Rose Hill, Tunbridge Wells, trong lúc người anh mà ông yêu mến nhất là Augustus qua đời, Baden-Powell nhận được học bổng vào Charterhouse, một trường trung học công danh tiếng. Lần đầu ông được biết tới các kỹ thuật trinh sát là trong những lần trốn học chơi đuổi bắt và nấu ăn trong khu rừng gần trường mặc dù điều đó là vi phạm nghiêm trọng nội quy nhà trường. Ông cũng chơi piano và violon, là một nghệ sĩ thuận cả hai tay và ưa thích diễn kịch. Những ngày lễ nghỉ của ông thường là những cuộc thám hiểm bằng thuyền và canô chung với anh em của ông. Sau đó, ông đã lãnh đạo thành công một chiến dịch quân sự ở Ashanti. Năm ông 40 tuổi, ông được thăng chức làm trưởng đội kỵ binh số 5 vào năm 1897 ở Ấn Độ. Vài năm sau ông viết một quyển sách: "Trợ giúp trinh sát" (Aids to scouting), một bảng tổng hợp những bài viết về trinh sát trong quân đội, dùng để huấn luyện tân sinh. Nhờ vào quyển này và một số phương pháp khác, ông đã có thể giúp họ suy nghĩ độc lập, thực hành ý kiến của mình và sinh tồn nơi hoang dã. Baden Powell trên một bưu thiếp cổ vũ ái quốc vào năm 1900

Ông trở về Nam Phi vào giữa Đệ nhị Chiến tranh Boer. Nhiệm vụ của ông là đánh trả người Zulu. Bấy giờ ông đã là đại tá trẻ nhất trong quân đội Anh. Ông chịu trách nhiệm tổ chức một nhóm người địa phương để hỗ trợ tiền tuyến. Trong lúc đó, ông bị bao vây ở thành Mafeking bởi 8000 người Boer. Mặc dù bị thua thiệt về quân số, thành Mafeking đã đứng vững trong 217 ngày. Những bãi mìn giả được dựng lên và quân của ông được lệnh phải giả bộ đi tránh hàng rào kẽm gai xung quanh thành. Baden-Powell đã gần như tự làm công việc trinh sát.

Trong cuộc vây hãm đó, một nhóm các thiếu niên chưa đến tuổi quân ngũ đã được sử dụng để canh gác, liên lạc, cứu thương và nhiều thứ khác nữa, giải phóng những người lớn khác ra tiền tuyến. Mặc dù Baden-Powell đã không tự mình lập ra nhóm thiếu niên này, và cũng chẳng có bằng chứng nào cho thấy ông chú ý đến nhóm này, ông đã thật sự ấn tượng trước lòng quả cảm và sự điềm tĩnh của họ trên chiến trường. Do đó ông dùng hình ảnh những thiếu niên đó làm tấm gương sáng trong chương đầu tiên của Hướng đạo cho nam (Scouting for Boys). Cuộc vây hãm thành Mafeking kết thúc ngày 16 tháng 5 năm 1900. Sau khi được thăng chức trung tướng, Baden-Powell trở thành người hùng dân tộc. Sau khi thành lập Sở Cảnh sát Nam Phi, ông trở về Anh làm thanh tra của kỵ binh vào 1903.

Mặc dù ông có cơ hội rất cao làm Tổng tư lệnh nhưng Baden-Powell quyết định giải ngũ vào 1910 với chức Trung tướng theo lời khuyên của vua Edward VII. Edward VII cho rằng Baden-Powell có thể phục sự đất nước nhiều hơn bằng cách phát triển phong trào Hướng đạo.

Trong cơn bùng phát của Thế chiến thứnhất năm 1914, Baden-Powell tự rời khỏi Bộ Chiến tranh. Lord Kitchener nhận xét: "Ông có thể giao lại nhiệm vụ của ông cho nhiều người khác thích hợp nhưng không có ai có thể thay thế ông trong những quyển sách Hướng đạo vô giá".. Người ta đồn rằng ông tham gia vào công tác tình báo và các sĩ quan tình báo tìm cách khắc sâu và nuôi dưỡng huyền thoại này một các cẩn thận.

Cuộc sống gia đình

thumb|Baden-Powell và vợ và 3 người con, năm 1917 thumb|Mộ phần vợ chồng Baden-Powell tại nghĩa trang Nyeri, [[Kenya]]

Vào tháng 1 năm 1912, Baden-Powell gặp một người phụ nữ có khả năng làm người vợ tương lai của ông, Olave St Clair Soames, khi ông đang trên tàu Arcadia để tới New York để truyền bá Hướng đạo. Lúc đó Olave chỉ mới 23 tuổi còn Baden-Powell thì những 55 tuy rằng họ có cùng ngày sinh. Đó không phải là một độ tuổi thích hợp cho hôn nhân thời đó. Họ đính hôn vào tháng 9 cùng năm và trở thành một đề tài cho báo chí vì sự nổi tiếng của Baden-Powell. Để tránh sự phiền toái của báo chí, họ tổ chức kết hôn trong bí mật vào ngày 30 tháng 10 năm 1912. Mỗi hướng đạo sinh Anh đóng góp 1 xu để mua quà cưới cho Baden-Powell: một chiếc xe hơi.

Baden-Powell là bạn của Juliette Gordon Low, người sáng lập Hội nữ Hướng đạo Mỹ và đã động viên cô đi truyền bá Hướng đạo khắp nước Mỹ.

Baden-Powell và Olave sống ở Pax Hill từ 1919 tới 1939. Ngay sau khi kết hôn, Baden-Powell đã phải đối mặt với những vấn đề về sức khoẻ. Ông bị chứng đau đầu dai dẳng, mà theo bác sĩ là bệnh thần kinh và chữa trị bằng cách giải mộng (dream analysis). Cơn đau đầu giảm dần sau khi Baden-Powell đổi sang phòng ngủ tạm thời ngoài ban công. Năm 1934, tình trạng này chấm dứt. Năm 1939, ông sống ở Kenya trong căn nhà hồi trước ông làm việc để dưỡng sức. Ông mất vào ngày 8 tháng 1 năm 1941 và được chôn ở Nyeri, Kenya gần núi Kenya. Tấm bia trên mộ ông có hình một vòng tròn và một dấu chấm ở giữa mang ý nghĩa "đã kết thúc".

Khi vợ ông, bà Olave, mất, tro của bà được gửi đến để chôn kế bên chồng bà ở Kenya. Chính phủ Kenya đã công nhận mộ Baden-Powell như một di tích lịch sử.

Baden-Powell có ba người con: 1 trai và 2 gái

Các giải thưởng

Vào 1937, Baden Powell được nhận Huân chương Công trạng, một trong những giải thưởng riêng biệt nhất của Anh, và ông cũng nhận được 28 huân chương của những nứơc khác.

Sói Đồng, huân chương của Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới dành cho những công lao đặc biệt, được trao lần đầu cho Baden Powell. Ông cũng là người đầu tiên nhận giải thưởng Trâu Bạc, giải thưởng cao nhất của Hội Hướng đạo sinh Mỹ, vào năm 1926.

Ông được đề cử giải Nobel Hoà bình năm 1939 nhưng không được nhận giải vì hội đồng xét duyệt giải Nobel tuyên bố năm đó không có giải Nobel hoà bình do diễn ra chiến tranh thế giới lần 2.

Phong trào Hướng đạo

thumb|Robert Baden-Powell năm 1907 trên đảo Brownsea Island Khi thế kỷ 19 trôi đi, kỹ thuật Hướng đạo bắt đầu được nhiều bộ phận của các lực lượng quân sự áp dụng khi mà cách chiến đấu trong chiến tranh và trong các trận đánh đã thay đổi. Trinh sát viên Mỹ, Frederick Russell Burnham đã mang kỹ thuật Hướng đạo sang Phi Châu và trong Đệ nhị Chiến tranh Matabele ông đã giới thiệu nó cho Robert Baden-Powell, người sáng lập ra phong trào Hướng đạo. Baden-Powell trước tiên bắt đầu hình thành ý tưởng của ông cho một chương trình huấn luyện thanh niên về kỹ thuật Hướng đạo trong khi thực hiện nhiệm vụ trinh sát với Burnham tại Matobo Hills, Matabeleland (hiện tại là một phần của Zimbabwe).

Trong chuyến trở về từ châu Phi, Baden-Powell nhận ra quyển sách huấn luyện quân đội của ông, "Trợ giúp trinh sát" (Aids to Scouting) đã trở thành một trong những quyển bán chạy nhất thời đó và đang được sử dụng rộng rãi trong nhà trường và các tổ chức đoàn thể. Sau 1 cuộc gặp với trưởng Lữ đoàn Nam, Sir William Alexander Smith, Baden-Powell đã quyết định viết lại quyển Aids to Scouting cho phù hợp hơn với thiếu niên. Năm 1907 ông tổ chức buổi đi trại đầu tiên cho 20 thiếu niên từ nhiều tầng lớp xã hội để kiểm nghiệm tính thực tiễn của ý tưởng mình. Baden-Powell cũng chịu ảnh hưởng lớn từ Ernest Thompson Seton, người sáng lập Hội thủ công người Da Đỏ khi họ gặp nhau năm 1906. Scouting for Boys sau đó được in những 6 lần chỉ riêng trong năm 1908 và bán được hơn 150 triệu bản, được xếp hạng thứ 4 trong số những sách bán chạy nhất thế kỷ 20. Nhiều thiếu niên cả nam và nữ tự động thành lập những đội Hướng đạo và phong trào Hướng đạo phát triển mạnh mẽ, bắt đầu từ 1 quốc gia rồi lan ra bao trùm cả thế giới. Phong trào Hướng đạo từng phát triển song song với Lữ đoàn nam. Một đại hội Hướng đạo sinh được tổ chức ở Luân Đôn năm 1909, chính tại đây Baden-Powell thấy người nữ hướng đạo sinh đầu tiên. Phong trào Hướng đạo Nữ được thành lập năm sau đó dưới sự bảo hộ của em gái của Baden-Powell, bà Agnes Baden-Powell.

Năm 1920, Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ nhất được tổ chức ở Olympia và Baden-Powell được tôn làm Thủ lĩnh Hướng đạo Thế giới. Ông được phong chức Nam tước xứ Gilwell vào ngày 17 tháng 9 năm 1929. Công viên Gilwell trở thành nơi huấn luyện huynh trưởng Hướng đạo của thế giới.

Năm 1929, trong kỳ Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ 3, ông nhận được hai món quà: 1 chiếc Rolls-Royce và 1 nhà trên xe hiệu Eccles Caravan. Hai chiếc xe này là thành quả của tiền tiết kiệm hàng triệu hướng đạo sinh trên thế giới. Chúng đã giúp đỡ Baden-Powell rất nhiều trong những chuyến đi châu Âu sau này.

Nhờ vào những nỗ lực của ông, tới năm 1922 đã có trên 1 triệu hướng đạo sinh ở 32 quốc gia, năm 1939 con số này là hơn 3.3 triệu.

Trong bức thư cuối cùng gởi các hướng đạo sinh, Baden-Powell viết:

Tác phẩm

Sách quân đội

1884: Reconnaissance and Scouting 1885: Cavalry Instruction 1889: Pigsticking or Hoghunting 1896: The Downfall of Prempeh 1897: The Matabele Campaign1899: Aids to Scouting for NCO's and Men 1900: Sport in War 1901: Notes and Instructions for the South African Constabulary *1914: Quick Training for War

Sách Hướng đạo

1908: Scouting for Boys 1909: Yarns for Boy Scouts 1912: Handbook for Girl Guides (đồng tác giả với Agnes Baden-Powell) 1913: Boy Scouts Beyond The Sea: My World Tour 1916: The Wolf Cub's handbook 1918: Girl Guiding 1919: Aids To Scoutmastership 1921: What Scouts Can Do 1922: Rovering to Success 1929: Scouting and Youth Movements *1935: Scouting Round the World

Sách khác

1905: Ambidexterity (co-authored with John Jackson) 1915: Indian Memories 1915: My Adventures as a Spy[30] 1916: Young Knights of the Empire: Their Code, and Further Scout Yarns[31] 1921: An Old Wolf's Favourites 1927: Life's Snags and How to Meet Them 1933: Lessons From the Varsity of Life 1934: Adventures and Accidents 1936: Adventuring to Manhood 1937: African Adventures 1938: Birds and beasts of Africa 1939: Paddle Your Own Canoe *1940: More Sketches Of Kenya

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Robert Stephenson Smyth Baden-Powell**, Nam tước Baden-Powell OM, GcMG, GCVO, KCB, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1857 và mất ngày 8 tháng 1 năm 1941, còn được gọi là BP, là trung tướng trong
Agnes Baden-Powell **Agnes Smyth Baden-Powell** (16 tháng 12 năm 1858 – 2 tháng 6 năm 1945) là em gái của Đệ nhất Nam tước Robert Baden-Powell, và được ghi nhớ nhất là việc bà thành
**Olave St Clair Baden-Powell** (22 tháng 2 năm 1889 – 19 tháng 6 năm 1977) được sinh ra với tên là **Olave St Clair Soames** tại Chesterfield ở Anh Quốc. Chồng của bà là Robert
**Tòa nhà Baden-Powell** (_Baden-Powell House_) là một nhà khách Hướng đạo và trung tâm hội nghị tại Nam Kensington, London, được xây dựng để tưởng niệm Robert Baden-Powell, người sáng lập ra phong trào Hướng
**Robert** có thể đề cập đến: *Robert Schumann *Robert Baden-Powell *Robert McNamara
**Hướng đạo** (tiếng Anh: _Scouting_), hay còn được biết với tên là **Phong trào Hướng đạo** (tiếng Anh: _Scout Movement)_, là một phong trào thanh thiếu niên có phạm vi toàn cầu với mục đích
**Trại Hướng đạo Đảo Brownsea** là một sự kiện cắm trại dành cho nam trên Đảo Brownsea thuộc Bến tàu Poole, miền nam Anh Quốc, được Robert Baden-Powell tổ chức để thử nghiệm ý tưởng
**Hải Hướng đạo** (_Sea Scouts_) là thành viên của Phong trào Hướng đạo quốc tế với điểm đặc biệt nổi bật là các hoạt động thiên về dưới nước như đi thuyền kayak, chèo thuyền,
**Hội Hướng đạo** (_The Scout Association_) là tên gọi chính thức của một hội Hướng đạo tại Vương quốc Anh được Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới công nhận. Hướng đạo bắt đầu
**Cuộc bao vây Mafeking** là hành động lừng danh nhất của Anh Quốc trong Đệ nhị Chiến tranh Boer. Nó xảy ra tại thị trấn Mafeking (bây giờ là Mafikeng) tại Nam Phi trong thời
**Hội Nữ Hướng đạo Anh Quốc** (_Girlguiding UK_) là tổ chức Nữ Hướng đạo quốc gia của Anh Quốc. Nữ Hướng đạo bắt đầu ở Vương quốc Anh vào năm 1910 sau khi Robert Baden-Powell
nhỏ|Hoạt họa trong tạp chí [[Punch, xuất bản năm 1929 cho Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ 3]] **Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ 3** _(3rd World Scout Jamboree)_
**Ngành Tráng sinh Hướng đạo** (_Rover Scouting_) là một phân ngành của Hướng đạo dành cho thanh niên, và tại một số quốc gia cũng có phụ nữ tham gia. Một nhóm Tráng sinh tương
**Châm ngôn Hướng đạo** của phong trào Hướng đạo trong tiếng Việt vốn được gọi là _Sắp Sẵn_ (_Be Prepared_). Nó được dùng bằng nhiều thứ ngôn ngữ bởi hàng triệu Hướng đạo sinh trên
**Nữ Thiếu sinh Hướng đạo** (_Girl Guide hoặc Girl Scout_) là một bé gái thường từ 10 đến 17 tuổi tham gia vào phong trào Hướng đạo thế giới (_Hướng đạo Việt Nam giới hạn
**Tu viện Westminster** (tiếng Anh: _Westminster Abbey_), có tên chính thức **Nhà thờ kinh sĩ đoàn Thánh Peter tại Westminster** (_Collegiate Church of St Peter at Westminster_), là một nhà thờ theo kiến trúc Gothic
Phù hiệu dành cho Lễ kỷ niệm một trăm năm [[Hướng đạo - đã được các Hướng đạo sinh khắp thế giới mang]] **Lễ một trăm năm Hướng đạo năm 2007** (_Scouting 2007 Centenary_) gồm
**Ernest Thompson Seton** (14 tháng 8 năm 1860 - 23 tháng 10 năm 1946) là một người Canada gốc Anh (và là công dân nhập tịch Hoa Kỳ) đã trở thành một tác giả nổi
**Nữ Ấu sinh Hướng đạo** hay **Chim non** (_Brownie_) là một bé gái tuổi từ 7 đến 10 và là thành viên của một hội Nữ Hướng đạo. Ban đầu, giống như các Nữ Thiếu
**Hướng đạo** là một phong trào lớn toàn cầu nên đôi khi không tránh được việc bị vướng mắc vào các vấn đề xã hội gây tranh cãi, thí dụ như phong trào đòi dân
Ấu sinh Hướng đạo trong đồng phục từ Hồng Kông **Ấu sinh Hướng đạo** (_Cub Scout_) là một ngành thành viên của phong trào Hướng đạo trên phạm vi cả thế giới dành cho các
phải|khung|Bìa phần hai của _Hướng đạo cho nam_, tháng 1 năm 1908 **_Hướng đạo cho nam: Sách chỉ nam hướng dẫn về tư cách công dân tốt_** (_Scouting for Boys: A Handbook for Instruction in
**Hội Nữ Hướng đạo Mỹ** (_Girl Scouts of the United States of America_) là một tổ chức thanh thiếu niên dành cho nữ tại Hoa Kỳ và các bé gái sống ở hải ngoại. Chương
phải|Các thiếu sinh quân Mafeking cùng với đội trưởng của họ là Thượng sĩ Warner Goodyear đứng bên phải. **Đội Thiếu sinh quân Mafeking** (_Mafeking Cadet Corps_) là một nhóm nam thiếu sinh quân trong
**Kỹ thuật Hướng đạo** (_Scoutcraft_) là một thuật từ được dùng để chỉ các hiểu biết và kỹ năng cần có đối với những người tìm tòi khám phá đời sống hoang dã và tự
**Trại Họp bạn Hướng đạo lần thứ nhất** _(1st World Scout Jamboree)_ được Anh Quốc tổ chức từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 1920 tại London. Có 8.000 Hướng đạo
Juliette Gordon Low (giữa) chụp hình với hai [[Nữ Hướng đạo sinh]] **Juliette Gordon Low** (31 tháng 10 năm 1860 – 17 tháng 1 năm 1927) là một lãnh đạo thanh thiếu niên Mỹ và
Ngày **22 tháng 2** là ngày thứ 53 trong lịch Gregory. Còn 312 ngày trong năm (313 ngày trong năm nhuận). Ngày này có tần suất cao rơi vào thứ hai, thứ tư, hoặc thứ
**Không Hướng đạo sinh** (_Air Scouts_) là những thành viên của Phong trào Hướng đạo quốc tế, với điểm đặc biệt nổi bật là các hoạt động thiên về phi hành. Không Hướng đạo sinh
**Woodcraft Indians** (tạm dịch là **Người bản thổ Mỹ thạo Kỹ năng Rừng**) là một chương trình thanh thiếu niên được Ernest Thompson Seton thành lập. Nó sau đó được đổi tên thành "Woodcraft League
Từ khi xuất bản sách Hướng đạo cho nam _(Scouting for Boys)_ năm 1908, tất cả nam và nữ Hướng đạo khắp thế giới đều làm lễ tuyên hứa và tuyên thệ sống theo lý
Từ khi sách Hướng đạo cho nam (_Scouting for Boys_) được phát hành vào năm 1908, tất cả các Hướng đạo sinh nam và nữ khắp thế giới đều làm lễ tuyên hứa và tuyên
**Nữ Tráng sinh Hướng đạo** (_Ranger_ hay _Ranger Guide_) là một thành viên trong một ngành của một số tổ chức Nữ Hướng đạo, có tuổi nằm trong khoảng cuối lứa tuổi thiếu nữ và
**Công viên Gilwell** là một khu đất trại và trung tâm hoạt động cho các nhóm Hướng đạo cũng như trung tâm huấn luyện và hội nghị cho các Huynh trưởng Hướng đạo. Khu vực
**Hội Nữ Hướng đạo Thế giới** (_World Association of Girl Guides and Girl Scouts hay viết tắt là WAGGGS_) là một hội toàn cầu hỗ trợ các tổ chức Hướng đạo toàn nữ và có
nhỏ|Frederick Russell Burnham thumb|Hình của Baden-Powell vẽ Burnham, Matopos Hills, năm 1896 **Frederick Russell Burnham** (1861-1947) đã mang kỹ thuật Hướng đạo sang Phi Châu và trong Đệ nhị Chiến tranh Matabele ông đã giới
**Sir Cyril Arthur Pearson, Đệ nhất Nam tước** (24 tháng 2 năm 1866 – 9 tháng 12 năm 1921) là một trùm báo chí Vương quốc Anh và nhà xuất bản, đáng ghi nhận nhất
**_Chuyện rừng xanh_** hay **_Cậu bé rừng xanh_** (tên gốc tiếng Anh: **_The Jungle Book_**, xuất bản năm 1894) là một tuyển tập truyện ngắn của nhà văn người Anh Rudyard Kipling. Hầu hết các
**Huy hiệu Rừng** hay **Bằng Rừng** _(Wood Badge)_ là một đẳng cấp cao nhất dành cho một huynh trưởng Hướng đạo sau một thời gian sinh hoạt, tham dự các khóa huấn luyện cơ bản,
phải Các tổ chức **Nam và Nữ Hướng đạo** hiện nay được chia thành các nhóm tuổi khác nhau vì mục đích mang lại các chương trình Hướng đạo và Nữ Hướng đạo thích ứng
**Ngành Kha Hướng đạo** (_Venture Scouting_) là một ngành của Phong trào Hướng đạo tại đa số các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung Anh dành cho lứa tuổi từ 15 đến 18 trong
**Hướng đạo Việt Nam** là một tổ chức thanh thiếu niên được thành lập vào năm 1931 bởi Huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy tại Hà Nội. Hướng đạo Việt Nam trước đây từng là một
**Nữ Hướng đạo** (_Girl Guides hay Girl Scouts_) là một phong trào song hành với Hướng đạo. Khi Hướng đạo được Robert Baden-Powell thành lập vào năm 1907, ý định thành lập nó là chỉ
**Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới** (_World Organization of the Scout Movement_, viết tắt là WOSM) là một tổ chức phi chính phủ điều hành hầu như tất cả các phong trào Hướng
**Phương pháp Hướng đạo** là một phương pháp giáo dục không chính thức được Hướng đạo sử dụng để đạt được mục tiêu của mình. Người sáng lập ra phong trào Hướng đạo, Robert Baden-Powell
**Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ 11** _(11th World Scout Jamboree)_ được Hy Lạp tổ chức năm 1963 ở Marathon. Đoàn đông nhất tham dự sự kiện này là Vương quốc Anh,
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
Ngày **24 tháng 1** là ngày thứ 24 trong lịch Gregory. Còn 341 ngày trong năm (342 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *41 – Hoàng đế La Mã Caligula, được biết tới với
nhỏ|phải|R. Tait McKenzie **Robert Tait McKenzie** (sinh 1867 tại Ramsay Township, quận Lanark, Ontario, Canada – mất 28 tháng 4 năm 1938 tại Philadelphia, Hoa Kỳ) là nhà điêu khắc, bác sĩ, đồng thời là
**Lê Thị Lựu** (chữ Hán: 黎氏榴, 19 tháng 1 năm 1911 – 6 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ chuyên về tranh lụa và tranh sơn dầu người Việt Nam. Bà được xem