✨Rivaldo

Rivaldo

Borba Ferreira (sinh ngày 19 tháng 4 năm 1972 tại Paulista, Pernambuco), được biết đến nhiều nhất với tên Rivaldo (), là một cựu cầu thủ bóng đá Brasil chơi ở vị trí tiền vệ. Anh từng được FIFA bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất năm 1999 và đoạt Quả Bóng Vàng năm 1999.

Giai đoạn nổi bật nhất trong sự nghiệp của Rivaldo là 5 năm thi đấu tại câu lạc bộ xứ Catalan Barcelona, khi mà anh giúp câu lạc bộ này giành được chức vô địch La Liga 2 năm liên tiếp (1998 - 1999) và Copa del Rey 1998, cũng trong giai đoạn này anh góp công lớn đưa Brasil lên ngôi vô địch thế giới lần thứ 5. Tháng 4 năm 2004, anh được Vua Pelé đưa vào danh sách 125 cầu thủ còn sống vĩ đại nhất.

Trong khoảng thời gian từ 1993 đến 2003, Rivaldo đã chơi 86 trận và ghi 36 bàn cho đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil (vàng - xanh), và là một trong những nhân tố chính giúp đội này đoạt FIFA World Cup năm 2002. Ở vai trò tiền vệ tấn công, anh được xem như là người có khả năng kiến thiết trận đấu tốt và mang nhiều những phẩm chất kỹ thuật điêu luyện. Anh còn nổi tiếng với những cú sút lật bàn đèn.

Thiếu niên

Rivaldo sinh ra trong một gia đình rất nghèo khổ, nằm trong khu ổ chuột ở gần thành phố cảng Recife. Bề ngoài của anh hiện vẫn in đậm những dấu ấn nhọc nhằn từ thuở ấu thơ: đôi chân vòng kiềng và hàm răng bị mất mấy cái. Ông Romildo, cha của anh đã bị chết trong một tai nạn đường sắt từ năm 1989. Một năm sau sự mất mát này, Rivaldo đã bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của mình.

Sự nghiệp

Bắt đầu tại Brasil

Rivaldo trở thành cầu thủ chuyên nghiệp từ 17 tuổi, khi ký hợp đồng với Paulista vào năm 1989.. Ông Paulista, huấn luyện viên của đội thường tỏ ra không tin tưởng cái thân thể yếu ớt của anh, điều này làm anh khó chịu. Sau Olympics, chuyện đó không xảy ra, và thay vì đến Ý, Rivaldo sang Tây Ban Nha để đá cho Deportivo La Coruña ở giải La Liga. Anh chỉ ở đó 1 mùa giải, song đã để lại ấn tượng bằng những thành tích tốt. Rivaldo là một trong bốn vua phá lưới của mùa bóng với 21 bàn sau 41 trận, giúp Deportivo cán đích ở vị trí thứ 3. Năm 1997, Rivaldo được chuyển sang FC Barcelona, bằng một cuộc chuyển nhượng trị giá 4 tỷ peseta Tây Ban Nha (khoảng 26 triệu đô-la). Trong thời gian này tuy quan hệ với van Gaal rất căng thẳng, Rivaldo vẫn ghi được 10 bàn tại đấu trường UEFA Champions League, giúp đội bóng vào đến bán kết. Van Gaal thì bị sa thải vào tháng 6 năm 2000. Đến mùa giải La Liga 2000 - 2001, Rivaldo lại một lần nữa là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ 2. Trong trận đấu cuối cùng của mùa bóng đó, gặp Valencia CF, Rivaldo ghi một cú hat-trick giúp đội thắng 3-2. Bàn thắng thứ 3 ở phút thứ 90 trong trận này là một bàn thắng kinh điển, đó là một pha lật bàn đèn được phối hợp từ nhiều động tác kỹ thuật: đỡ bóng bằng ngực, xoay người và ngả người móc bóng, nó cũng được coi là bàn thắng tuyệt vời nhất trong sự nghiệp của anh.

World Cup 2002

Rivaldo trở thành một trong những nhân vật trung tâm của sự chỉ trích mỗi khi Brazil không chiến thắng, kể từ Olympics 1996, sau khi anh hứa sẽ giữ vững phong độ tại đội tuyển quốc gia như khi đá cho câu lạc bộ. Đến giải bóng đá tiền World Cup 2002, phong độ nghèo nàn của Brasil khiến cho cả đội bị khán giả la ó đủ điều, đến mức mà sau trận thắng 1-0 trước Colombia vào tháng 12 năm 2000, Rivaldo dọa rằng anh sẽ nghỉ thi đấu cho tuyển quốc gia.

Thời gian này, vì phong độ tốt, anh chịu sự tranh giành giữa câu lạc bộ Barcelona và tuyển Brasil. Mùa hè năm 2001, có lần Rivaldo phải sang Panama đá 1 trận đấu mang tính trình diễn giữa Brasil với Panama, rồi bay sang Ba Lan để đá cho Barcelona, rồi lại về Brazil cho một trận đấu với Paraguay, tất cả diễn ra trong vòng 10 ngày.

Đỉnh cao trong sự nghiệp bóng đá quốc tế của Rivaldo là tại World Cup 2002, tổ chức ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Anh ghi bàn liên tục trong 5 trận đầu cho Brasil. Tiền đạo Ronaldo trong một bài phỏng vấn sau trận đấu thứ tư của đội tuyển, đã cho rằng có sự giữa anh và Rivaldo có sự kình địch. Rivaldo, khi trả lời, đã nhấn mạnh rằng mục đích chính của anh là trở thành nhà vô địch thế giới. Rivaldo lại có bàn thắng ngoạn mục vào lưới Bỉ tại vòng 2. Sau đó huấn luyện viên đội Bỉ là ông Robert Waseige đã nhận xét anh là nhân tố quyết định chiến thắng. Tiền vệ trẻ lúc đó là Ronaldinho giúp Rivaldo ghi thêm 1 bàn thắng nữa trong trận thắng Anh 2-1 ở tứ kết. Brasil gặp Đức ở chung kết, và chiến thắng 2-0 để lên ngôi vô địch. Cả hai bàn thắng của Ronaldo đều có sự tham gia của Rivaldo, trong đó bàn thắng thứ hai là sau một pha bỏ bóng đẹp mắt.

Năm 2002, tuy là nhân tố chính của một giải đấu thành công, nhưng Rivaldo đã để hoen ố hình ảnh của mình không ít. Chuyện xảy ra trong trận đấu đầu tiên của đội với Thổ Nhĩ Kỳ: trong những phút cuối của trận, khi bóng đã ra ngoài sân, hậu vệ Thổ Nhĩ Kỳ Hakan Ünsal bực bội đá bóng trúng Rivaldo, khi anh đang chờ ở chấm phạt góc. Quả bóng chỉ văng trúng tay, nhưng Rivaldo lại nằm xuống ôm mặt. Pha ăn vạ này khiến trọng tài đưa cầu thủ Thổ Nhĩ Kỳ rời sân với chiếc thẻ vàng thứ hai. Nhưng sau khi FIFA xem lại băng video, họ đã phạt Rivaldo 11,670 Swiss Francs tội ăn vạ, cộng với 1,670 tiền phí tổn.

Rời Barcelona

Vào tháng 6 năm 2002, một sự kiện lớn đã ảnh hưởng đến sự nghiệp của Rivaldo, đó là huấn luyện viên van Gaal, người có hiềm khích với anh từ trước, lại trở về làm huấn luyện viên Barcelona. Rivaldo ngay sau đó đã hủy bỏ hợp đồng với câu lạc bộ Tây Ban Nha, và ký một hợp đồng thời hạn 3 năm với câu lạc bộ Ý AC Milan. Với Milan, anh đoạt Coppa Italia và chức vô địch UEFA Champions League vào năm 2003. Thời gian ở Milan, anh không làm được như kỳ vọng. Rivaldo rời câu lạc bộ sau một thời gian đá bóng ít mà chấn thương thì nhiều. Trở lại Brazil, anh đá cho Cruzeiro tại Belo Horizonte. Đến năm 2004 anh lại về châu Âu, gia nhập câu lạc bộ Hy Lạp Olympiacos F.C., sau khi từ chối lời mời sang Premier League chơi cho Bolton.

Tại Hy Lạp

Rivaldo đã ghi một số bàn thắng đáng nhớ tại giải vô địch Hy Lạp mùa bóng 2004-05, trong màu áo sọc của Olympiacos, đáng kể nhất là một bàn thắng tại trận chung kết Cúp Hy Lạp. Rivaldo đã sút phạt thành bàn 2 lần trong mùa giải đó, đầu tiên là trong trận derby với Panathinaikos và bàn thứ hai trong trận gặp câu lạc bộ Anh Liverpool tại UEFA Champions League. Anh cũng ghi 1 bàn quyết định trong trận thắng 1-0 cuối mùa giải với Thessaloniki, giúp đội nhà bảo vệ thành công chức vô địch.

Rivaldo tiếp tục ghi nhiều bàn quan trọng tại UEFA Champions League năm sau, trong đó có một bàn vào lưới Real Madrid, nhưng chừng đó chưa đủ để đưa Olympiacos tiến sâu vào giải đấu khắc nghiệt này, họ bị loại sau vòng bảng. Sau đó anh ký một hợp đồng mới với Olympiacos ở tuổi 34. Vào tháng 6 năm 2006, Rivaldo tuyên bố mùa bóng 2006-2007 với Olympiacos sẽ là mùa bóng cuối cùng anh ở Châu Âu, trước khi trở lại Brasil. Nhưng anh lại thay đổi quyết định và ở lại 1 năm nữa. Mùa 2006-2007 cũng là mùa giải tốt nhất kể từ khi anh đến Olympiakos: ghi 17 bàn sau 27 trận, và giành chiến thắng tại giải Superleague.

Trong một lần phỏng vấn, Rivaldo phát biểu rằng "người hâm mộ ở Olympiacos thật tuyệt", và là tuyệt nhất trong những câu lạc bộ anh từng trải qua.

Rivaldo rời Olympiakos vào cuối mùa bóng 2006-2007 do không đạt được thỏa thuận về mức lương, sau 81 trận đấu và 43 bàn thắng cho câu lạc bộ. Anh gia nhập AEK Athens FC vào 29 tháng 5 năm 2007, đó là một sự kiện lớn trong lịch sử của đội bóng.

Tại AEK Athens Rivaldo chơi dưới sự dẫn dắt của Llorenç Serra Ferrer, từng thân với anh tại Barcelona. Anh mở đầu sự nghiệp tại AEK bằng một bàn thắng trong trận giao hữu. Anh ghi một cú lật bàn đèn nữa tại vòng 1 UEFA Cup trong trận đấu với FC Red Bull Salzburg. Trong trận đấu với Olympiacos, Rivaldo đã đưa AEK giành chiến thắng 4-0 trước đội bóng cũ.

Tại Uzbekistan

Ngày 25 tháng 8 năm 2008, Rivaldo tuyên bố anh đồng ý rời Hy Lạp để chuyển sang chơi cho FC Bunyodkor, một câu lạc bộ của Uzbekistan, tại đây anh sẽ nhận mức lương 10,2 triệu Euro 1 năm. Ngay trong trận ra mắt vào ngày 8 tháng 9 năm 2008, anh đã lập 1 cú đúp giúp đội vượt qua Mash'al với tỉ số 2-0. Tuy vậy, anh không thể giúp đội bóng tiến sâu vào Cúp C1 châu Á. Đội đã phải chịu thất bại 0-3 trước các cầu thủ đến từ Úc, Adelaide United tại vòng bán kết.

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Số liệu thống kê tính đến năm 2010.

Đội tuyển quốc gia

|- |1993||1||1 |- |1994||1||0 |- |1995||5||1 |- |1996||2||2 |- |1997||4||1 |- |1998||12||4 |- |1999||13||8 |- |2000||11||8 |- |2001||8||3 |- |2002||10||5 |- |2003||7||4 |- !Tổng cộng||74||39 |}

Bàn thắng ở World Cup

Thành tích

Palmeiras:

  • Giải vô địch bóng đá Brasil: 1994
  • São Paulo State Championship: 1994, 1996
  • Euro-America Cup: 1996

Barcelona:

  • La Liga: 1998, 1999
  • Cúp Nhà vua Tây Ban Nha: 1998
  • Siêu cúp Tây Ban Nha: 1997

Milan:

  • UEFA Champions League: 2003
  • Coppa Italia: 2003
  • Siêu cúp châu Âu: 2003

Olympiacos:

  • Greek Super League: 2005, 2006, 2007
  • Greek Cup: 2005, 2006

Brazil

  • FIFA World Cup Vô địch 2002 Á quân 1998
  • Cúp bóng đá Nam Mỹ: 1999
  • Cúp Liên đoàn các châu lục: 1997

Danh hiệu cá nhân

  • Brazilian Bola de Prata: 1993, 1994
  • Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA: 1999
  • Quả bóng vàng châu Âu: 1999
  • Cầu thủ hay nhất năm của World Soccer: 1999
  • Onze d'Or: 1999
  • Vua phá lưới Cúp bóng đá Nam Mỹ 1999
  • Cầu thủ xuất sắc nhất Cúp bóng đá Nam Mỹ 1999
  • Cầu thủ xuất sắc nhất năm của La Liga: 1999
  • Vua phá lưới UEFA Champions League: 2000
  • Đội hình toàn sao: 1998, 2002
  • Greek Championship best foreign player: 2006, 2007
  • FIFA 100
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Borba Ferreira** (sinh ngày 19 tháng 4 năm 1972 tại Paulista, Pernambuco), được biết đến nhiều nhất với tên **Rivaldo** (), là một cựu cầu thủ bóng đá Brasil chơi ở vị trí tiền vệ.
Nhãn hiệu: Barcelona 100% AuthenticGiới tính: NamNguồn hàng: Nhập từ USASản xuất: Tây Ban NhaNồng độ: Eau de ToilettePhong cách : Thể thao, mạnh mẽ, tươi mátHương đặc trưngHương đầu: Chanh Ý, tiêu hồngHương giữa:
nhỏ|phải|[[Lionel Messi là cầu thủ có thành tích xuất sắc nhất trong lịch sử Barca]] **Câu lạc bộ bóng đá Barcelona** (F.C. Barcelona) còn được gọi gọn là **Barcelona** và gọi quen thuộc là **Barça**
**Ronaldo Luís Nazário de Lima** (; sinh ngày 18 tháng 9 năm 1976), thường được biết đến với tên gọi **Ronaldo**, là một doanh nhân kiêm cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil
**Câu lạc bộ bóng đá Barcelona** (), thường được biết đến với tên gọi tắt **Barcelona**, hay đơn giản là **Barça** (), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại
**Ronaldo de Assis Moreira** (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1980 tại Porto Alegre, Brasil), thường được biết đến với cái tên **Ronaldinho Gaúcho** hay đơn giản là **Ronaldinho** (), là một cựu cầu thủ
Đây là bài viết chi tiết về **lịch sử câu lạc bộ A.C. Milan** một trong những câu lạc bộ bóng đá thành công nhất thế giới. Ở đấu trường quốc tế, đội đã giành
**Zinedine Yazid Zidane** (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1972), được biết đến phổ biến với biệt danh là **Zizou**, là huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ người Pháp thi đấu ở
nhỏ|Cầu thủ bóng đá Brazil Rivaldo. Giải thưởng **Cầu thủ xuất sắc nhất năm 1999 của FIFA** được trao cho cầu thủ Rivaldo với số điểm là 543. David Beckham trở thành người Anh có
Cú **ngả người móc bóng** (hay **ngả người sút bóng**, **lật bàn đèn**, **ngả bàn đèn**, **xe đạp chổng ngược**) là cú sút mà một cầu thủ thực hiện bằng cách tung người trên không
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil** (tiếng Bồ Đào Nha: _Seleção Brasileira de Futebol_, **SBF**) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil
**Mùa giải 1998–99** là một trong những mùa giải thành công nhất trong lịch sử câu lạc bộ bóng đá Manchester United. Sau khi kết thúc mùa giải trước không giành bất kỳ danh hiệu
**Giải bóng đá vô địch quốc gia Tây Ban Nha** (**Campeonato Nacional de Liga de Primera División**), thường được biết đến là **Primera División** hoặc **La Liga**, và chính thức được gọi là **LALIGA EA
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1: Nello Celio trở thành tổng thống Thụy Sĩ * 1 tháng 1: Kurt Waldheim trở thành tổng thư ký của Liên Hợp Quốc *
**Giải vô địch bóng đá thế giới 2002** (hay **Cúp bóng đá thế giới 2002**, , tiếng Hàn Quốc: _2002 FIFA 월드컵 한국/일본**_,** tiếng Nhật: _2002 FIFAワールドカップ 韓国/日本_) là lần tổ chức thứ 17 của
**Giải vô địch bóng đá thế giới 1998** (_,_ còn được gọi đơn giản là **France 98**) là lần tổ chức thứ 16 của Giải vô địch bóng đá thế giới, diễn ra tại Pháp
**Ngày 19 tháng 4** là ngày thứ 109 trong mỗi năm dương lịch thường (ngày thứ 110 trong mỗi năm nhuận). Còn 256 ngày nữa trong năm. ## Sự kiện ### Thế kỷ 19 trở
**Brasil**, quốc hiệu là **Cộng hòa Liên bang Brasil**, là quốc gia lớn nhất Nam Mỹ. Brasil là quốc gia lớn thứ năm trên thế giới về diện tích và lớn thứ bảy về dân
**David Robert Joseph Beckham** (OBE, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1975) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh từng thi đấu cho các câu lạc bộ Manchester United, Preston North
nhỏ|Cầu thủ Ronaldino - cầu thủ hai lần được trao danh hiệu "Cầu thủ xuất sắc nhất năm " Giải thưởng **Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2005 của FIFA** được trao cho Ronaldinho (lần
**Carlo Ancelotti** (; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1959 tại Reggiolo) hay biệt danh _Carletto_, là một cựu cầu thủ bóng đá người Ý và hiện là huấn luyện viên của đội tuyển Brasil.
**Arda Turan** (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1987) là một huấn luyện viên bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ và cựu cầu thủ chuyên nghiệp chơi ở vị trí tiền vệ cánh. Hiện tại,
**Gilberto Aparecido da Silva** (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1976 ở Lagoa da Prata, Minas Gerais), thường được biết đến là **Gilberto Silva** (), là một cựu cầu thủ bóng đá Brasil, anh thường
**Patrick Stephan Kluivert** (, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1976) là một huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan. Ông hiện đang là huấn luyện viên trưởng
**Luiz Felipe Scolari** (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1948 tại Passo Fundo, Rio Grande do Sul, Brasil), thường gọi là Felipão (_Phil lớn_) là cựu huấn luyện viên bóng đá người Brasil gốc Ý.
**Tashkent** (; ) hay **Toshkent** (; / , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Uzbekistan. Đây cũng là thành phố đông dân nhất Trung Á, với dân số là 3 triệu.
**Leonardo Nascimento de Araújo**, còn được gọi đơn giản là **Leonardo** (sinh ngày 5 tháng 9 năm 1969 tại Niterói, Brasil), là huấn luyện viên và một cựu tiền vệ. Anh từng chơi cho đội
Dưới đây là danh sách các cầu thủ đã ghi bàn tại các kì World Cup từ khi giải đấu bắt đầu năm 1930. Ở các lần tổ chức giải cầu thủ ghi bàn nhiều
**Gregory Coupet** (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1972 ở Le Puy-en-Velay, Haute-Loire) là một cựu thủ môn người Pháp, từng khoác áo Saint-Étienne, Olympique Lyonnais, Atlético de Madrid, Paris Saint Germain và đội tuyển
thumb|right|[[Alex Oxlade-Chamberlain thực hiện một cú rabona trong buổi tập luyện của Arsenal vào năm 2013.]] **Rabona** (còn gọi là _Cú đá vắt chéo chân_) được cầu thủ Argentina tên là Ricardo Infante sáng tạo
Một cầu thủ hàng tấn công đang thực hiện một quả đá phạt trực tiếp. **Đá phạt trực tiếp** là một tình huống cố định xảy ra khi một cầu thủ tấn công bị hàng
**Kevin-Prince Boateng** (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1987 tại Berlin-Wedding, Tây Berlin, Tây Đức) là cựu cầu thủ bóng đá người Ghana sinh ra tại Đức thi đấu ở vị trí tiền vệ hoặc
**Giải vô địch bóng đá U-19 Đông Nam Á 2018** sẽ là lần thứ 15 của giải vô địch bóng đá U-19 Đông Nam Á, được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá Đông Nam
**Cúp bóng đá Nhà vua Thái Lan** (King's Cup) là một phần của cuộc thi giao hữu hàng năm **Cúp Nhà vua (Thái Lan)**. Được tổ chức thường niên tại Thái Lan bởi Hiệp hội
**Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực Nam Mỹ** là một phần của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, được tổ chức nhằm chọn ra
**Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 khu vực Nam Mỹ** là một phần của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002, được tổ chức bởi Liên đoàn bóng
**Trận chung kết Giải bóng đá vô địch thế giới 2002** là trận đấu bóng đá diễn ra ngày 30 tháng 6 năm 2002 tại sân vận động quốc tế Yokohama ở thành phố Yokohama
**James David Rodríguez Rubio** ( hoặc , sinh ngày 12 tháng 7 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Colombia hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công
**Bruno Cunha Cantanhede** (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1993), hay **Bruno Cantanhede** là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Viettel tại
**Cúp bóng đá Nam Mỹ 1999** là Cúp bóng đá Nam Mỹ lần thứ 39, diễn ra ở Paraguay từ 29 tháng 6 đến 18 tháng 7 năm 1995. Giải đấu có 12 đội tuyển
**Anderson Souza Conceição** (sinh ngày 1 tháng 2 năm 1994), còn được gọi là **Anderson Talisca** hay **Talisca**, là một cầu thủ bóng đá người Brasil hiện thi đấu cho ở vị trí tiền vệ