✨Ranjit Singh

Ranjit Singh

Maharaja Ranjit Singh () (13 tháng 11 năm 1780 ở Gujranwala, đế quốc Mogul – 20 tháng 6 năm 1839 ở Lahore, đế quốc Sikh) là vị quốc vương đầu tiên của đế quốc Sikh tại vùng Ngũ Hà (Punjab - nay thuộc biên giới Ấn Độ-Pakistan), có biệt danh Sher-e-Punjab (Sư tử Ngũ Hà). Ông lãnh đạo dân Punjab đánh bại các cuộc xâm lược của người Hồi giáo, đặc biệt là chiến thắng trước người Afghanistan, và ông đã thiết lập mối quan hệ giao hảo với người Anh.

Thuở thiếu thời

Ranjit Singh sinh ra ở Gujranwala (Pakistan ngày nay), trong một gia đình Sandhu Sikh (Theo một số sử gia có nguồn gốc Jatt và một số người Sansi có quyền khác), nhánh thuộc misl Sukerchakia Khi còn thơ ấu, ông bị bệnh đậu mùa và kết quả là bị mất một mắt. Trong thời gian đó, phần lớn vùng Punjab được cai trị bởi Liên minh Sikh theo cơ cấu Sarbat Khalsa, cũng như người Afghan, và vùng đất này bị phân chia giữa những "tộc chiến" được gọi là misl. Thân phụ Ranjit Singh là Maha Singh giữ chức Tổng chỉ huy của misl Sukerchakia và cai quản vùng đất ở phía tây Punjab, nằm quanh các tổng hành dinh của ông ở Gujranwala. Ranjit Singh kế vị cha ở tuổi 12. Sau vài cuộc chiến tranh, các kẻ thù phải công nhận ông là vị thủ lĩnh của họ, và ông thống nhất các bè phái người Sikh thành một nhà nước.

Đại Vương xứ Ngũ hà

nhỏ|trái|[[Samadhi của Ranjit Singh ở Lahore, Pakistan]]

Ranjit Singh đăng quang ngày 12 tháng 4 năm 1801 (xảy ra đồng thời với Baisakhi). Sahib Singh Bedi, hậu duệ của Guru Nanak Dev, đã chỉ đạo việc thực hiện lễ đăng quang. Ông đóng đô tại Gujranwala từ năm 1799 đến năm 1902. Năm 1802 ông thiên đô về Lahore. Ranjit Singh vươn tới quyền lực trong một thời gian rất ngắn, từ một thủ lĩnh của một misl Sikh cuối cùng đã lên ngôi Đại vương (Maharaja) của vùng Punjab.

Trong những năm tới ông giao chiến với quân Afghanistan, đuổi họ ra khỏi vùng Punjab. Ông cũng chiếm các lãnh thổ của người Pashtun trong đó có Peshawar (nay là Tỉnh Biên giới Tây Bắc và các khu vực có bộ lạc sinh sống). Đây là lần đầu tiên người Pashtun Peshwar nằm dưới quyền thống trị của người Punjab. Ông đã chiếm tỉnh Multan bao quanh các phần đất phía bắc Punjab, Peshawar (1818), Jammu và Kashmir (1819). Thế là Ranjit Singh đã đặt dấu chấm cho hơn ngàn năm thống trị của Hồi giáo. Ông cũng chinh phạt các nhà nước vùng đồi núi ở phía bắc Anandpur Sahib, nước lớn nhất là Kangra. Khi Ngoại giao Đại thần của Ranjit Singh là Fakir Azizuddin, gặp Toàn quyền Anh ở Ấn Độ, Huân tước Auckland, ở Simla, Auckland đã hỏi Fakir Azizuddin rằng vua Sikh bị chột bên mắt nào. Azizuddin trả lời: Đại Vương của chúng tôi là một vầng mặt trời và mặt trời ấy chỉ có một mắt.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Maharaja_ Ranjit Singh** () (13 tháng 11 năm 1780 ở Gujranwala, đế quốc Mogul – 20 tháng 6 năm 1839 ở Lahore, đế quốc Sikh) là vị quốc vương đầu tiên của đế quốc Sikh
thumb|Nawab Jassa Singh Ahluwalia **Sultan ul Quam Nawab Jassa Singh Ahluwalia** (1718 – 1783) là một tín đồ theo đạo Sikh, vị lãnh tụ Sikh có uy tín trong thời kì Liên minh những người
Maharaja **Kharak Singh**, (Tiếng Punjab ਖੜਕ ਸਿੰਘ, 1801 – 1840) là vị vua thứ hai của vương quốc Punjab và đế quốc Sikh. Ông là con trưởng của Ranjit Singh và Maharani Datar Kaur. Ông
**Maharaja Sir Duleep Singh** (4 tháng 9 năm 1838 - 22 tháng 10 năm 1893), hay được gọi là **Dalip Singh**, và sau này được đặt biệt danh là "Hoàng tử đen của Perthshire", là
**Đế quốc Sikh** (tiếng Ba Tư: سرکارِ خالصه, phiên âm La Tinh: Sarkār-ē-Khālsā; tiếng Punjab: ਸਿੱਖ ਖ਼ਾਲਸਾ ਰਾਜ; tiếng Anh: Sikh Empire) là một nhà nước bắt nguồn từ Tiểu lục địa Ấn Độ, được
**Chiến tranh Anh-Sikh lần thứ nhất** (tiếng Anh: First Anglo-Sikh War) đã diễn ra giữa Đế quốc Sikh và Công ty Đông Ấn Anh vào năm 1845 và 1846, chiến sự diễn ra trong và
**Danh sách vua Ấn Độ** sau đây là một trong những danh sách người đương nhiệm. Các vị vua và triều đại mang tính thần thoại ban đầu và được dẫn chứng bằng tư liệu
**Pháo đài Rohtas** (Tiếng Punjab, ; _Qila Rohtas_) là một pháo đài từ thế kỷ 16, nằm gần thành phố Jhelum, tỉnh Punjab của Pakistan. Pháo đài này được xây dựng trong thời gian trị
**Koh-i-Noor** (có nghĩa là __Mountain of Light_ (_Ngọn Núi của Ánh Sáng")'' theo ngôn ngữ người Ba Tư), là một viên kim cương nổi tiếng với trọng lượng ban đầu 793 carat (khi chưa cắt)
**Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Ấn Độ** là đội bóng đại diện cho Ấn Độ tại các cuộc thi tranh giải và trận đấu giao hữu bóng chuyền ở phạm vi quốc tế.
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
**Chand Kaur** (Năm 1802 - 11 tháng 6 năm 1842) là người cai trị thứ tư của đế quốc Sikh, được xưng tụng là **Malka Muqaddisa** vào ngày 2 tháng 12 năm 1840. Năm 1812,
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Nam Á** (còn gọi là **tiểu lục địa Ấn Độ**) là thuật ngữ dùng để chỉ khu vực miền nam của châu Á, gồm các quốc gia hạ Himalaya và lân cận. Về mặt địa
**Amritsar** (, ), có nghĩa "Pool of the Nectar of Immortality", là thủ phủ hành chính của quận Amritsar ở bang Punjab, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, dân
thumb|Rajawada (cung điện cũ) của Indore thumb|Cung điện Sukhnivas thumb|Maharaja của Indore trên lưng voi thumb|[[Yashwant Rao Holkar và Ranjit Singh năm 1805]] thumb|Maharaja [[Tukojirao Holkar II]] thumb|[[Tukojirao Holkar III, Maharaja của Indore]] thumb|Maharani Shrimant
**Thế kỷ 19** là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1801 đến hết năm 1900, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory (tức là lịch cổ). Nhưng theo Lịch thiên văn, Thế
**Đế quốc Durrani** (tiếng Pashtun: د درانیانو واکمني), còn gọi là **Đế quốc Afghanistan** (), được thành lập và xây dựng bởi Ahmad Shah Durrani. Vào thời kỳ đỉnh cao, lãnh thổ đế chế trải
**Mir Osman Ali Khan, Asaf Jah VII** GCSI GBE (5 là Nizam (người cai trị) cuối cùng của Phiên quốc Hyderabad, nhà nước lớn nhất của Ấn Độ thuộc Anh. Ông lên ngôi vào ngày
Đây là **danh sách các nhà thơ Ấn Độ** bao gồm các nhà thơ có nguồn gốc dân tộc, văn hóa hoặc tôn giáo Ấn Độ hoặc sinh ra ở Ấn Độ hoặc di cư
**Indira Priyadarśinī Gāndhī** (Devanāgarī: इन्दिरा प्रियदर्शिनी गान्धी; IPA: ; tên thời trẻ là **Indira Priyadarshini Nehru**, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1917, mất ngày 31 tháng 10 năm 1984) là Thủ tướng Ấn Độ