✨Quần đảo Sakishima

Quần đảo Sakishima

Bản đồ tỉnh Okinawa, bao gồm quần đảo Sakishima ([[quần đảo Miyako|Miyako và Yaeyama)]] (hay 先島群島, Sakishima guntō) (tiếng Okinawa: Sachishima) là một chuỗi các hòn đảo nằm ở cực nam của quần đảo Nhật Bản. Chúng là một phần của quần đảo Nansei (hay Ryukyu) và bao gồm quần đảo Miyako và quần đảo Yaeyama. Về mặt hành chính, quần đảo là một phần của tỉnh Okinawa, Nhật Bản, và bao gồm quần đảo đang tranh chấp là Senkaku (Điếu Ngư/Điếu Ngư Đài).

Các đảo có người ở

Quần đảo Sakishima Quần đảo Miyako (trước là phó tỉnh Miyako) border Thành phố Miyakojima Đảo Ikema (Ikema-jima) Đảo Irabu (Irabu-jima) Kurima (Kurima-jima) Đảo Miyako (Miyako-jima) Đảo Ōgami (Ōgami-jima) *Đảo Shimoji (Shimoji-shima) *border Làng Tarama Đảo Minna (Minna-jima) Đảo Tarama (Tarama-jima) Quần đảo Yaeyama (nguyên là phó tỉnh Yaeyama) border Thành phố Ishigaki *Đảo Ishigaki (Ishigaki-jima) *border Thị trấn Taketomi Đảo Aragusuku (Aragusuku-jima) Đảo Hateruma (Hateruma-jima) Đảo Iriomote (Iriomote-jima) Đảo Kohama (Kohama-jima) Đảo Kuroshima (Kuroshima) Đảo Taketomi (Taketomi-jima) Đảo Yubu (Yubu-jima) **border Thị trấn Yonaguni ***Đảo Yonaguni (Yonaguni-jima)

Image:Miyako ikema bridge.JPG|Cầu Ikema, nằm giữa Miyako và Ikema Image:Shimojijima-airport.jpg|Shimoji Image:Tarama.JPG|Tarama Image:Ishigaki bay seen from southern gate bridge.jpg|Ishigaki Image:Village in Taketomi Island - located at southwest Japan.jpg|Taketomi Image:黒島Img499.jpg|Kuroshima Image:Funauki iriomote island.jpg|Iriomote Image:Yonaguni agarizaki.jpg|Yonaguni

Lịch sử

Quần đảo Sakishima là đầu tiên xuất hiện trong sử sách là tại Shoku Nihongi (Nhật Bản thư kỷ) (797), trong đó kể rằng 714 đã gửi triều cống đến Dazaifu với 52 người dân từ , , và các đảo khác. Shigaki được cho là hiện nay, Kumi là hoặc điểm dân cư của Iriomote. Nguyên sử (1370) thuật rằng một người sóng sót sau đắt tàu đến từ Mật Nha Cổ (密牙古, Mìyágǔ) đã đến Ôn Châu năm 1317. Đây được cho là văn kiện đầy tiên đề cập đến .

Các công cụ bằng đá và vỏ sò/mai rùa có niên đại 2.500 đã được khai quật từ các gò vỏ/mai trên quần đảo Sakishima. Các công cụ bằng vỏ sò hay mai rùa cùng niên đại cũng được phát hiện ở Đài Loan và Philippines, song không thấy tại đảo Okinawa hay Amami. Do vậy quần đảo được cho là đã có một mối quan hệ mạnh mẽ hay gần gũi hơn với Đài Loan, Philippines.

Các đồ đất nung địa phương đã được làm từ thế kỷ 11. Nhiều lãnh chúa địa phương, được gọi là án ti (anji), đã xuất hiện từ thế kỷ 15. Trong cùng thời gian, các thế lực chính trị tại Okinawa nhận ra rằng các đảo xa xôi có thể hữu dụng để làm điểm dừng chân trong một tuyến giao thươg hàng hải và đã tăng cường ảnh hưởng của mình. đã thống nhất Miyako vào năm 1365, và đã đến triều cống Satto, quốc vương của vương quốc Trung Sơn ở đảo Okinawa.

Năm 1500, , án ti của Ishigaki, đã nổi dậy chống lại vương quốc Lưu Cầu. Vua Shō Shin đã gửi quân đến để đối phó, và lãnh đạo là , án ti của Miyako. Nakasone đã chiến thắng, và phần lớn quần đảo Sakishima nằm dưới quyền kiểm soát của Lưu Cầu. Tuy nhiên, Yonaguni vẫn còn là một đảo độc lập cho đến năm 1522, nằm dưới sự lãnh đạo của nữ lão đạo theo truyền thuyết là , song có tranh luận về việc nhân vật này có tồn tại hay không.

Gia tộc Shimazu của phiên Satsuma tại Nhật Bản đã xâm lược vương quốc vào năm 1609. Trong các thế kỷ sau đó, thetriều đình Lưu Cầu đặt nơi này dưới chế độ sưu thuế khắc nhiệt, và đánh thuế đinh nặng tại quần đảo Sakishima. Do hậu quả của những việc này, việc giết trẻ sơ sinh và các cách khác nhằm kiểm soát dân số trở nên phổ biến giống như tại khắp Lưu Cầu; hài cốt của các hành động này vẫn còn trên khắp Sakishima. Dân đảo Yaeyama bị đánh thuế nặng hơn Miyako, do cuộc nổi dậy của Oyake xuất phát từ Yaeyama. Vương quốc cũng cấm việc di cư của dân đảo, cô lập họ nhằm ngăn ngừa các cuộc nổi dậy. Động đất Yaeyama năm 1771 kéo theo sóng thần đã giết chết 12.000 người, tức một nửa dân số toàn bộ quần đảo Sakishima. Bởi đất đai bị ảnh hưởng do nhiễm mặn, nạn đói thường xuyên xảy ra, và dân số quần đảo tiếp tục suy giảm cho đến thời kỳ Minh Trị.

Sau cải cách Minh Trị vào năm 1872, chính quyền Nhật Bản bãi bỏ vương quốc Lưu Cầu và hợp nhất quần đảo thành một phần của Nhật Bản. Nhà Thanh phản đối hành động này và tuyên bố chủ quyền đối với vương quốc trước đây. Nhật Bản đề nghị nhượng lại quần đảo Sakishima, cho Trung Quốc được "đãi ngộ tối huệ quốc" của Nhật Bản theo Hiệp ước Nhật-Thanh. Trung Quốc ban đầu đồng ý song về sau dưới sự phản đối của tổng đốc Lý Hồng Chương, điều ước đã không thành. Trung Quốc tiếp tục tuyên bố chủ quyền cho đến khi thất bại trong chiến tranh Thanh-Nhật

Quần đảo hoang Senkaku cũng được hợp nhất vào Nhật Bản trong khoảng thời gian này. Không giống như phần còn lại của Sakishima, quần đảo Senkaku nay cũng được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) tuyên bố chủ quyền với tên gội Điếu Ngư/Điếu Ngư Đài.

Việc hiện đại hóa Sakishima của chính quyền Nhật Bản đã diễn ra chậm hơn so với lục địa Nhật Bản hay đảo chính Okinawa. Thuế thân nặng nề tiếp tục cho đến năm 1903. Trong khi đó, các đảo cùng Đài Loan đã sử dụng múi giờ (UTC+8) cho đến năm 1937, chậm một giời sau với giờ chuẩn Trung ương Nhật Bản (UTC+9).

nhỏ|Một bản thông báo của Hiệp hội Cộng đồng Yaeyama, tháng 12 năm 1945 Không giống như đảo Okinawa, quần đảo Sakishima không phải hững chịu các cuộc giao tranh trên mặt đất trong Thế chiến II. Tuy nhiên, các đảo đã bị không kích và bị các tàu hải quân bắn phá vào năm 1945. Từ tháng 6, chính quyền Nhật Bản đã ra lệnh cho người dân địa phương sơ tán đến phía bắc Ishigaki và Iriomote, tại đây 3.647 người đã chết vì bị bệnh sốt rét. (trong khi chỉ có 174 người chết trong các cuộc không kích) Bơi bệnh dịch, các khu vực này có dân cư thưa thớt trong suốt lịch sử. Căn bệnh này không được loại trừ cho đến năm 1961. Vào tháng 6 năm 1945, sau khi Quân đội Đế quốc Nhật Bản bị đánh bại tại Okinawa, đã có một khoảng trống về quân sự và chính quyền ở Sakishima. Một số quân đồn trú đã cướp phá các trang trại và tham gia và hành động bạo lực chống lại cư dân địa phương. Để đối phó, các cư dân Ishigaki đã thành lập . Do nó đóng vai trò như một chính quyền địa phương, một vài nhà sử học sau này đã mô tả hiệp hội này là . Hoa kỲ tuyên bố áp đặt chế độ quân sự tại quần đảo vào tháng 12 năm 1945, phục hồi các phó tỉnh Miyako và Yaeyama. Hiệp hộ địa phương biến mất. Năm 1952, Hiệp ước San Francisco đã xác định các đảo nằm dưới quyền kiểm soát của Hoa Kỳ.

Quần đảo trở về Nhật Bản vào năm 1972 cùng với các phần khác của tỉnh Okinawa.

Văn hóa

Cóa ba ngôn xbanr địa tại quần đảo; tiếng Miyako tại quần đảo Miyako, tiếng Yonaguni tại đảo Yonaguni, và tiếng Yaeyama trên quần đảo Yaeyama. Tất cả các ngôn ngữ này đều thuộc Nhóm ngôn ngữ Ryukyu. Các ngôn ngữ này không hiểu lẫn nhau. Tại Okinawa, tiếng Nhật chuẩn có địa vị chính thức, trong khi tiếng Nhật Okinawa, được sử dụng rộng rãi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bản đồ tỉnh Okinawa, bao gồm quần đảo Sakishima ([[quần đảo Miyako|Miyako và Yaeyama)]] (hay 先島群島, _Sakishima guntō_) (tiếng Okinawa: _Sachishima_) là một chuỗi các hòn đảo nằm ở cực nam của quần đảo Nhật
theo cách gọi của Nhật Bản, hay theo cách gọi quốc tế phổ biến, là một chuỗi các hòn đảo ở phía tây Thái Bình Dương sát mép phía đông của Biển Hoa Đông. Quần
, **quần đảo Điếu Ngư**, **quần đảo Điếu Ngư Đài** ( - theo cách gọi của Đài Loan), **đảo Điếu Ngư cùng các đảo phụ thuộc** ( - theo cách gọi của Trung Quốc đại
nhỏ|Vị trí của Quần đảo Miyako Quần đảo Miyako tại tỉnh Okinawa , Hán Việt: _Cung Cổ Liệt đảo_ là một nhóm đảo thuộc tỉnh Okinawa, Nhật Bản, phía đông Quần đảo Yaeyama. ## Nhóm
thumb|Biển Hoa Đông Dưới đây là **danh sách đảo trong biển Hoa Đông**: *Quần đảo Mã Tổ (29,61 km²) **Đảo Bắc Can ***Đảo Cao Đăng ***Đảo Đại Khâu () ***Đảo Lượng ***Đảo Tiểu Khâu (小坵) ***Đảo
Nhật Bản là quốc đảo tạo thành từ 4 đảo chính là: * Hokkaido * Honshu (đảo lớn nhất Nhật Bản) * Shikoku Ngoài ra là hơn 6.000 hòn đảo khác, hơn 430 hòn đảo
**Trận Okinawa** (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là **chiến dịch Iceberg** (**chiến dịch Băng Sơn**) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế
là trận động đất xảy ra lúc 8:30 (JST) ngày 4 tháng 5 năm 1998. Trận động đất có cường độ 7.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 35 km. Trận động đất đã tạo
**USS _Sangamon_ (CVE-26)** là một tàu sân bay hộ tống được cải biến từ tàu chở dầu để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc
**HMS _Victorious_ (R38)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các hoạt động của nó trong những năm 1941 và 1942
**HMS _Euryalus_ (42)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham
**USS _Hackleback_ (SS/AGSS-295)** là một từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái
**USS _Spikefish_ (SS-404/AGSS-404)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên
**HMS _Howe_ (32)** là chiếc thiết giáp hạm cuối cùng của lớp _King George V_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp nổ ra,
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Farenholt_ (DD-491)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Bagley_ (DD-386)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Bagley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Taylor_ (DD-468/DDE-468)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Trathen_ (DD-530)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Santee_ (ACV/CVE/CVHE-29)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Suwannee_ (AVG/ACV/CVE/CVHE-27)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Nicholas_ (DD-449/DDE-449)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Petrof Bay_ (CVE–80)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo một vịnh nhỏ
**USS _Thomas E. Fraser_ (DD-736/DM-24)** là một tàu khu trục rải mìn lớp _Robert H. Smith_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo
**USS _Steamer Bay_ (CVE-87)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
**USS _Savo Island_ (CVE-78)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt nhằm ghi nhớ trận
**USS _Edmonds_ (DE-406)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Hemminger_ (DE-746)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Rudyerd Bay_ (CVE-81)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
**USS _Fanshaw Bay_ (CVE-70)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
là thị trưởng của Nanjō, Okinawa và là cựu đại biểu Chúng Nghị viện, đại diện cho Quận 4 Okinawa (phía nam đảo Okinawa và quần đảo Sakishima). Ông được bầu trong cuộc tổng tuyển
**Ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu** hay là một nhóm ngôn ngữ tập trung tại Nhật Bản và Quần đảo Lưu Cầu đã phát triển độc lập với các ngôn ngữ khác sau nhiều thế kỷ.