✨Polesie (tỉnh)

Polesie (tỉnh)

Tỉnh Polesie () là một đơn vị hành chính của Ba Lan giữa hai thế chiến (1918–1939), được đặt tên theo khu vực lịch sử Polesia. Tỉnh được thành lập bởi Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Ba Lan vào ngày 19 tháng 2 năm 1921, là kết quả của thỏa thuận hòa bình được ký kết với các nhà nước Xô viết Nga và Ukraina tại Riga. Tỉnh Polesie là tỉnh lớn nhất của Ba Lan giữa hai thế chiến. Tỉnh ngừng hoạt động vào tháng 9 năm 1939, sau cuộc xâm lược Ba Lan của Đức Quốc xã và Liên Xô.

Nhân khẩu

Tỉnh lỵ của tỉnh Polesie và cũng là thành phố lớn nhất là Brześć nad Bugiem (Brest trên sông Bug) với khoảng 48.000 cư dân (1931). Tỉnh được tạo thành từ 9 powiat (huyện), và có 12 thị trấn hoặc thành phố lớn. Năm 1921, dân số của tỉnh là 879.417 người, với mật độ dân số khoảng 20,8 người/km², thấp nhất ở Ba Lan giữa hai thế chiến. Đến năm 1931, nhờ chương trình định cư do chính phủ tài trợ và sự phát triển tiến bộ của giáo dục, thương mại và công nghiệp ở các trung tâm đô thị (bị bỏ quên dưới thời Nga hoàng), dân số đã tăng lên 1.132.200 người và mật độ dân số lên 31/km². Người Do Thái chiếm 49,2% dân số thành thị của Polesie, cao nhất ở Ba Lan giữa hai thế chiến. Họ tham gia chủ yếu vào buôn bán lẻ, thương mại và công nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, sau trận hỏa hoạn toàn thành phố vào tháng 8 năm 1921, thủ phủ của tỉnh được chuyển đến Brześć Litewski. Brześć Litewski được đổi tên thành Brześć nad Bugiem ("Brest trên sông Bug" trong tiếng Ba Lan) vào ngày 20 tháng 3 năm 1923. Từ năm 1921 đến 1923, đơn vị hành chính của tỉnh Polesie bao gồm: huyện Brześć, huyện Drohiczyn Poleski, huyện Kamień Koszyrski, huyện Kossów, huyện Łuniniec, huyện Pińsk, huyện Prużana và huyện Sarny.

Vào ngày 1 tháng 1 năm 1923, huyện Stolin được thành lập từ một số gmina của các huyện Łuniniec, Pińsk và Sarny. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1930, huyện Sarny được chuyển đến tỉnh Wołyń. Ngày 1 tháng 4 năm 1935, thủ phủ của huyện Kossów được chuyển đến Iwacewicze và nó được đổi tên thành huyện Iwacewicze.

Kinh tế

Polesie là tỉnh lớn nhất của Ba Lan giữa hai thế chiến, bao gồm 10% tổng lãnh thổ của đất nước với diện tích . nhiều người trong số họ đã di cư đến Ba Lan để thoát khỏi các cuộc tàn sát ở phía đông. Dân cư Polesie thuộc sắc tộc Ukraina chiếm 19,3% tổng dân số tỉnh, ở mức 219.000.

Nhu cầu dai dẳng về đầu tư liên tục của nhà nước (như được nêu trong bản ghi nhớ năm 1936) là rất lớn; chương trình xây dựng đường xá cần 7,1 triệu złoty Ba Lan hàng năm, nhưng khu vực thiếu hụt hoàn toàn đá. Chi phí dự kiến ​​để xây dựng lại các tuyến đường thủy ước tính khoảng 14,4 triệu złoty; nhà máy chế biến và điểm bán hàng ở mức 2,5 triệu złoty, ngành sữa ở mức 480.000 złoty hàng năm, và bao gồm 2 triệu złoty cho giáo dục. Theo ý kiến ​​của các nhà quản lý địa phương, nền kinh tế của Ba Lan giữa hai cuộc chiến bao gồm hai phần: Ba Lan "A" (phát triển tốt hơn) và Ba Lan "B" (kém phát triển hơn); khu vực Polesie được họ đặt tên là Ba Lan "C".

Lịch sử

thumb|right|Tiếng mẹ đẻ ở Ba Lan, dựa trên điều tra dân số Ba Lan năm 1931 Liên Xô xâm lược miền đông Ba Lan vào ngày 17 tháng 9 năm 1939. Liên Xô đã gặp phải sự kháng cự hạn chế và quân đội của họ nhanh chóng di chuyển về phía tây cho đến khi họ đến Brześć vào ngày 22 tháng 9, nơi họ chạm trán với quân đội Đức, và tổ chức cuộc duyệt binh thắng lợi chung.

Các nhà chức trách Liên Xô chiếm đóng tỉnh Polesie đã giải tán chính quyền Ba Lan và chính thức sáp nhập vùng được gọi là Tây Belarus vào Liên Xô, phân chia nó giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia (tỉnh Polesia). Sau Hội nghị Tehran năm 1943, Joseph Stalin vào năm 1945 nhất quyết vẽ lại biên giới của Ba Lan với sự chấp thuận của phương Tây. Liên Xô buộc tái định cư dân số Ba Lan của tỉnh về phía tây, và khu vực tỉnh trước chiến tranh trở thành một phần của Liên Xô trong sáu mươi năm tiếp theo. Tính đến năm 2009, hầu hết tỉnh Polesie trước đây (bao gồm Brześć và Pińsk) thuộc chủ quyền Belarus; chỉ phần phía nam của nó thuộc Ukraina (Kamień Koszyrski và Sarny). Gần như toàn bộ phần Belarus của tỉnh Polesie là một phần của tỉnh Brest, ngoại trừ gmina Sosnkowicze (nay là Lenin) của powiat Łuniniec với các làng Cimoszewicze ve Milewicze.

Thống đốc

Walery Roman 14 tháng 3 năm 1921 – 3 tháng 5 năm 1922 Stanisław Józef Downarowicz 18 tháng 5 năm 1922 – 2 tháng 10 năm 1924 Kazimierz Młodzianowski 4 tháng 10 năm 1924 – 5 tháng 5 năm 1926 Bỏ trống 5 tháng 5 năm 1926 – 14 tháng 7 năm 1926 Jan Krahelski 14 tháng 7 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 1932 (có hiệu lực đến 23 tháng 12 năm 1926) Wacław Kostek-Biernacki 8 tháng 9 năm 1932 – 2 tháng 9 năm 1939 *Jerzy Albin de Tramecourt 17 tháng 2 năm 1937 – 7 tháng 9 năm 1937 (quyền cho Kostek-Biernacki)

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tỉnh Polesie** () là một đơn vị hành chính của Ba Lan giữa hai thế chiến (1918–1939), được đặt tên theo khu vực lịch sử Polesia. Tỉnh được thành lập bởi Hội đồng Bộ trưởng
**Tỉnh Białystok** () là một đơn vị hành chính của Ba Lan giữa hai thế chiến (1918–1939). Thủ phủ và thành phố lớn nhất của tỉnh là Białystok với dân số hơn 91.000 người. Sau
**Tỉnh Wołyń** hay **tỉnh Volhynia** là một khu vực hành chính của Ba Lan giữa hai thế chiến (1918–1939) với diện tích 35.754 km², 22 đô thị và tỉnh lị ở Łuck. Tỉnh được chia thành
**Tỉnh Wilno** () là một trong 16 tỉnh của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan, với thủ phủ ở Wilno (nay là Vilnius, Litva). Khu vực tài phán được thành lập vào năm 1926 và
**Tỉnh Nowogródek** () là một đơn vị hành chính của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan từ năm 1919 đến 1939, với thủ phủ là Nowogródek (nay là Navahrudak, Belarus). Sau cuộc xâm lược Ba
nhỏ|Bản đồ các khu vực địa lý của Ba Lan, phân chia các khu vực theo từng màu khác nhau nhỏ|Bản đồ đặc điểm tự nhiên trên nền các dạng địa hình và các khu
**Chiến tranh Nga–Ba Lan** diễn ra giữa nước Nga Xô viết và Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan do xung đột sắc tộc cũng như thái độ chống cộng của Ba Lan từ 1919 đến
**Belarus** (phiên âm: "Bê-la-rút", ; , tr. **', , tiếng Nga: Беларусь, Белоруссия, _Belarus_, _Belorussiya_,) tên chính thức là **Cộng hòa Belarus''' (tiếng Belarus: Рэспубліка Беларусь, tiếng Nga: Республика Беларусь), là quốc gia không giáp
thumb|upright=1.4|Đất Chelm (đỏ tía) trên bản đồ biến hóa lãnh thổ Ba Lan, 1619–1939. **Đất Chełm** () là một khu vực của Vương quốc Ba Lan và sau này là của Thịnh vượng chung Ba
**Phân chia vùng thực vật của Ba Lan** - hệ thống phân chia lãnh thổ của Ba Lan thành các đơn vị được phân biệt dựa trên các tiêu chí vùng thực vật. Phân chia
**Liên Xô xâm lược Ba Lan năm 1939**, còn được gọi là **Chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina** bởi Liên Xô, là một cuộc xung đột quân sự không có lời tuyên
**Brest** (, _Brest_ hay Берасце, _Bieraście_; _Brest_; ; ; _Brisk_), trước đây cũng được gọi là Brest-on-Bug ("Brześć nad Bugiem" ở Ba Lan) và Brest-Litovsk ("Brześć Litewski" ở Ba Lan), là một thành phố của
nhỏ|240x240px| Tổng quan mỏ than LW Bogdanka nhỏ|240x240px| Trục khai thác mỏ ở Bogdanka nhỏ|240x240px| Bogdanka - trong mỏ nhỏ|240x240px| Bogdanka - mặt máy cắt nhỏ|240x240px| Bogdanka - than đá **Mỏ than Bogdanka** (Lubelski Węgiel
Ngày **6 tháng 10** là ngày thứ 279 (280 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 86 ngày trong năm. ## Sự kiện *105 TCN – Người Cimbri và Teuton đánh bại quân đội Cộng
Theo Đạo luật Bảo vệ Thiên nhiên (_Ustawa o o syncie przyrody_) ban hành năm 2004, Công viên Cảnh quan (_Parki Krajobrazowe_) được định nghĩa là "một khu vực được bảo vệ vì các giá
**Đất rừng tự nhiên** - một đơn vị phân chia vùng của một quốc gia được sử dụng trong lâm nghiệp. Đây là những khu vực có điều kiện địa văn mà một loại môi
**Adam Stanisław Naruszewicz** (; 20 tháng 10 năm 1733 – 8 tháng 7 năm 1796) là một quý tộc người Ba Lan - Litva. Ông đồng thời là một nhà thơ, sử gia, nhà viết