✨Phúc Âm Mátthêu

Phúc Âm Mátthêu

Phúc âm Mátthêu là một trong bốn sách Phúc âm trong Tân Ước viết về cuộc đời, sự chết và Sự phục sinh của Giêsu. Ba Phúc âm còn lại là Phúc âm Mark (Phúc âm Máccô hay Phúc âm Mác), Phúc âm Luke (Phúc âm Luca) và Phúc âm John (Phúc âm Gioan hay Phúc âm Giăng). Trong tiếng Việt sách này được gọi là Tin mừng theo Thánh Mátthêu (Công giáo) hoặc Tin lành theo Thánh Ma-thi-ơ (Tin lành). Vì là sách đầu tiên trong bốn sách Tin Mừng nên sách này còn được gọi là Phúc Âm thứ Nhất.

Theo truyền thống Kitô giáo, quyển Phúc âm Thứ nhất này được viết bởi Mátthêu, thuộc dòng dõi quý tộc, đồng thời là một người thu thuế.

Hầu hết các học giả tin rằng phúc âm này được viết trong khoảng từ 80 đến 90 sau Công nguyên, với một phạm vi khả năng trong khoảng từ 70 đến 110 sau Công nguyên (cũng có một quan điểm thiểu số cho là có thể trước năm 70). Tác giả ẩn danh có lẽ là một người nam Do Thái, đứng giữa các giá trị Do Thái truyền thống và phi truyền thống, và quen thuộc với các khía cạnh pháp lý kỹ thuật của kinh sách đang được tranh luận trong thời đại của ông. Viết bằng thứ ngôn ngữ "giáo đường Hy Lạp" học giả và bóng bẩy, ông đã rút ra ba nguồn chính: Phúc Âm Máccô, bộ sưu tập các câu nói giả thuyết được gọi là nguồn Q và tài liệu duy nhất cho cộng đồng của ông, được gọi là nguồn M hoặc "Mátthêu đặc biệt".

Tác giả

Mặc dù Phúc âm Matthew không ghi rõ tác giả là ai nhưng ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên, truyền thống Kitô giáo coi Mátthêu - người thu thuế được Chúa Giê-su kêu gọi làm sứ đồ - là tác giả của sách này. Trong Tân Ước có bốn danh sách Mười hai Sứ đồ (Mt 10:3; Mc 3:18; Lc 6:15; Cv 1:13), cả bốn đều có tên Mátthêu. Phúc âm Mátthêu (9:9) ghi lại: Mátthêu là "người thu thuế", được Chúa Giê-su gọi đi theo, khi ông "đang ngồi ở trạm thu thuế". Tuy nhiên, Luca và Máccô cũng kể một chuyện tương tự, nhưng chép tên người thu thuế đó là Lê-vi. Rất có thể tên khai sinh là Lê-vi theo tiếng Hebrew và Matthew (Ματθαιος Matthaios) là tên tiếng Hi Lạp dịch từ tên מתי (Mattay, Maty) trong tiếng Aramaic mà Giêsu đã đặt cho tông đồ này. Trong nguyên văn tiếng Hebrew, tên Mátthêu có nghĩa là "món quà của Chúa".

Những chứng tích còn lại của các nhà lãnh đạo Giáo hội sơ khai đồng ý với quan điểm Mátthêu là tác giả của Phúc Âm đầu tiên. Truyền thống đó được Kitô hữu chấp nhận từ thế kỷ thứ hai cho đến nay. Ngoài ra, những kinh văn cổ nhất, xuất bản vào thế kỷ thứ tư có ghi tựa đề "Theo Phúc âm Matthew".

Song đến đầu thế kỷ 18, nhiều học giả đã đặt vấn đề với quan điểm truyền thống. Đến nay, đa số đều nhìn nhận rằng Mátthêu không phải là tác giả của Phúc âm mang tên ông. Phúc âm Mátthêu chủ yếu viết cho các Kitô hữu người Do Thái nói tiếng Hy Lạp và người ngoại quốc, là những người tuân giữ một ít kinh Torah của Do Thái giáo.

Đến năm 1911, Ủy ban Kinh Thánh của Giáo hoàng xác nhận: Phúc âm Mátthêu là Phúc âm đầu tiên được ghi lại, tác giả là nhà Truyền giảng Mátthêu, và được viết bằng tiếng Aramaic.

Mối liên hệ giữa Phúc âm Mátthêu và Phúc âm Máccô và Phúc âm Luca vẫn là một đề tài mở rộng. Cả ba sách này gộp lại được gọi là Phúc âm Nhất lãm, ba sách có những câu và chữ trùng nhau. Trong số 1.071 câu, Phúc âm Mátthêu có 387 câu giống với cả Máccô và Luca, 130 câu giống với Máccô, 184 câu giống với Luca và 370 câu của riêng sách này.

Mặc dầu tác giả Phúc âm Mátthêu viết từ quan điểm riêng, theo một kế hoạch và mục tiêu của mình, phần lớn các học giả tin rằng tác giả đã vay mượn rất nhiều từ Phúc âm Máccô, và các tài liệu khác nữa. Có ba quan điểm khác nhau về ý kiến này. Quan điểm phổ thông nhất được nhiều học giả hiện nay công nhận là giả thuyết hai nguồn tài liệu, cho rằng Phúc âm Mátthêu vay mượn từ Phúc âm Máccô và một tài liệu khác mà các học giả gọi là tài liệu Q (viết tắt của Quelle trong tiếng Đức và có nghĩa là "tài liệu"). Quan điểm thứ hai tương tự với ý kiến trên gọi là giả thuyết Farrer, cho rằng Phúc âm Mátthêu vay mượn từ Phúc âm Máccô, và Phúc âm Luca được viết sau cùng, trích cả hai Phúc âm trên. Quan điểm thứ ba là quan điểm truyền thống của Kitô hữu cho rằng Phúc âm Mátthêu được viết đầu tiên và Phúc âm Máccô mượn từ Phúc âm Mátthêu. Quan điểm này do nhà thần học Augustine thành Hippo và Johann Jakob Griesbach đề xướng. Rất ít học giả ngày nay chấp nhận theo quan điểm này.

Trong tác phẩm The Four Gospels: A Study of Origins (1924), Burnett Hillman Streeter tranh luận rằng có một nguồn tài liệu thứ ba, được gọi là M, dầu chỉ là giả thuyết, ghi lại những điều có trong Phúc âm Mátthêu mà không có trong Phúc âm Mác và Phúc âm Lu-ca. Trong suốt thế kỷ 20, có nhiều lời phê bình lẫn bổ sung cho giả thuyết của Streeter. Chẳng hạn trong tác phẩm The Gospel Before Mark, xuất bản vào năm 1952, Pierson Parker cho rằng có một văn bản sớm của Phúc âm Mátthêu (proto-Matthew). Đây là nguồn tài liệu chính của Phúc âm Mátthêu, Phúc âm Máccô và tài liệu Q.

Nhiều học giả Kinh Thánh khác, như Herman N. Ridderbos, trong tác phẩm Matthew của ông, không công nhận Sứ đồ Mátthêu là tác giả của Phúc âm này. Ông liệt kê một số lý do như: văn bản viết bằng tiếng Hy Lạp chứ không phải tiếng Aramaic; Phúc âm này trích quá nhiều tài liệu từ Phúc âm Máccô, và thiếu những chi tiết thể hiện phẩm chất của một nhân chứng sống. Francis Write Beare tiếp nối ý kiến đó cho rằng: "Có nhiều chi tiết xác định rằng đây là sản phẩm của thế hệ Kitô hữu thứ hai hoặc thứ ba. Tên truyền thống Phúc âm Matthew được giữ lại cho tiện trong việc thảo luận mà thôi".

Đặc trưng

  • Phúc âm Mátthêu chứa đựng nhiều tư tưởng thần học hơn tính lịch sử.
  • Phúc âm Mátthêu trưng dẫn Thánh kinh Cựu Ước nhiều hơn các Phúc âm khác.
  • Nét đặc trưng của Phúc âm Mátthêu về Ki-tô học là hình ảnh Môi-sê mới trong Tân Ước, nghĩa là "Chúa Giê-xu là Đấng sáng lập Giao ước Mới, điều chỉnh và kiện toàn Luật cũ".
  • Phúc âm Mátthêu cho biết thái độ căn bản của môn đệ Chúa Giê-xu là biết "nghe, hiểu và thực hành lời của ngài". Nếu trong Lu-ca, môn đệ Chúa là chứng nhân thì trong Phúc âm này môn đệ Chúa là thính giả.

Khái quát

nhỏ|một giấy cói thế kỷ thứ 3, về đoạn 26 trong Mátthêu Phúc âm Mátthêu được chia làm bốn phần khác nhau: Hai phần giới thiệu, phần chính và phần cuối. Phần đầu tường thuật về sự giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa. Phần thứ hai giới thiệu Gioan Baotixita. Phần chính được chia làm năm phần nhỏ tường thuật hành trình của Chúa Giê-xu. Phần cuối viết về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giê-xu.

Tường thuật về sự giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giê-xu (Ch. 1-2).

Chức vụ và hoạt động của Gioan Baotixita chuẩn bị cho sự xuất hiện của Chúa Giê-xu (Ch. 3-4:11).

Chức vụ và hoạt động của Chúa Giê-xu tại vùng Galile (4:12–26:1).

Bài giảng trên núi, dạy dỗ về vấn đề đạo đức (Ch. 5–7)

Vấn đề truyền giáo, những điều Chúa Giê-xu dạy các Sứ đồ. (10–11:1)

Những ẩn dụ, các câu chuyện giải thích về Nước Trời, các phép lạ (Ch. 13-17).

Mệnh lệnh cho Hội Thánh, đề cập đến mối liên hệ giữa các Kitô hữu (18–19:1).

Những lời tiên tri, viết về Giêsu tái lâm và Cuộc phán xét cuối cùng (24–25).

Sự chết và sự Phục sinh của Giê-xu và đại mệnh lệnh (28:16–20).

Nội dung

Nội dung của Phúc âm Mátthêu theo trình tự như sau:

  • Gia phả của Giêsu (1:1–17)

  • Sự giáng sinh của Giêsu (1:18–25)

  • Cuộc viếng thăm của các nhà thông thái (2:1–12)

  • Trốn sang Ai Cập (2:13-23)

  • Vụ Herod Đại đế thảm sát trẻ em (2:16–18)

  • Gioan Baotixita (3:1–12, 11:2-19, 14:1–12)

  • Chúa Giêsu nhận lễ Thanh Tẩy (3:13–17)

  • Chúa Giêsu chịu cám dỗ (4:1–11)

  • Chức vụ tại Cabênaum (4:12–17)

  • Chúa Giêsu gọi Simon, Anrê, Giacôbê, Gioan (4:18–22)

  • Truyền giảng tại Galilee (4:23-25)

  • Bài giảng trên núi (5–7)

  • Những phép lạ (8:1-17)

  • Con người (8:18-20,16:21-26,17:22-23,20:18-19)

  • Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết (8:21-22)

  • Giêsu dẹp yên một trận cuồng phong (8:23–27)

  • Trừ quỷ tại Gadarene (8:28–34)

  • Giêsu chữa một người bị bại liệt (9:1-8)

  • Giêsu gọi Mátthêu (9:9–13)

  • Rượu mới bình cũ (9:14–17)

  • Cứu sống con gái chủ nhà hội (9:18-26)

  • Chữa lành cho người mù và câm (9:27-34)

  • Mùa gặt thật trúng nhưng thợ gặt quá ít (9:35-38)

  • Mười hai Sứ đồ (10:1–11:1)

  • Mang hòa bình không mang gươm giáo (10:34–39)

  • Nguyền rủa các thành Chorazin, Bethsaida, Capernaum (11:20-24)

  • Ca ngợi Đức Chúa Cha (11:25-30)

  • Lượm lúa trong ngày Sa-bát (12:1–14)

  • Đầy tớ được chọn (12:15-21)

  • Chúa và ma quỷ (12:22–29,46-50)

  • Giảng dạy tại Ca-bê-na-um (12:30)

  • Tội lỗi không bao giờ được tha (12:31-32)

  • Cây và trái(12:33-37)

  • Ý nghĩa thần học của chuyện Giô-na (12:38–42; 16:1–4)

  • Người bị quỷ nhập (12:43-45)

  • Những ẩn dụ của Chúa Giê-xu: người gieo giống, cỏ dại, hạt cải, men, kho tàng chôn giấu, ngọc trai, lưới (13:1–52)

  • Bị quê hương chối từ (13:53–58)

  • Giêsu hóa bánh ra nhiều cho 5000 người (14:13–21)

  • Giêsu đi trên mặt nước (14:22–33)

  • Chữa lành bệnh tại Gê-nê-sa-rết (14:34-36)

  • Vấn đề tinh sạch (15:1–20)

  • Chữa lành cho con gái thiếu phụ Phê-nê-ci (15:21-28)

  • Giêsu hóa bánh ra nhiều cho 4000 người (15:32–39)

  • Hãy đề phòng men (16:5-12)

  • Peter xưng nhận Chúa (16:13–20)

  • Sự tái lâm (16:27-28)

  • Chúa hóa hình (17:1–13)

  • Đuổi quỷ cho bé trai (17:14-20)

  • Giáo vụ cho thiếu nhi (18:1–7; 19:13–15)

  • Thái độ đối với sự cám dỗ (18:8-9)

  • Ẩn dụ Chiên lạc, Người đầy tớ không có lòng thương (18:10–35)

  • Vào Giu-đê (19:1-2)

  • Vấn đề ly dị (19:3–12)

  • Người giàu và sự cứu rỗi (19:16–27)

  • Mười hai ngôi phán xét (19:28-30)

  • Ẩn dụ về người làm công trong vườn nho (20:1–15)

  • Người đầu trở nên cuối và người cuối trở nên đầu (20:16)

  • Hành trình về Giê-ru-sa-lem (20:17)

  • Yêu cầu của Giăng và Gia-cơ (20:20–28)

  • Lễ lá (21:1–11)

  • Chúa và những người buôn bán trong đền thờ (21:12–17,23-27)

  • Cây vả (21:18–22)

  • Những ẩn dụ về Hai người con, Vườn nho, Tiệc Cưới (21:28–22:14)

  • Hãy trả cho Sê-sa những gì của Sê-sa (22:15–22)

  • Sự sống lại (22:23-33)

  • Vấn đề đạo đức (22:34–40)

  • Sự dạy dỗ về Đấng Cứu Thế (22:41-46)

  • Quở trách người Pha-ri-si (23:1-36)

  • Than khóc Giê-ru-sa-lem (23:37-39)

  • Ngày tận thế (24)

  • Ẩn dụ về Mười trinh nữ, Ta-lâng (25:1-30)

  • Chiên và dê - Ngày phán xét (25:31-46)

  • Judas Iscariot (26:1-5,14-16,27:3-10)

  • Chúa được xức dầu (26:6–13)

  • Tiệc Thánh (26:17–30)

  • Peter chối Chúa (26:31-35,69–75)

  • Chúa bị bắt (26:36–56)

  • Chúa bị lãnh đạo Do Thái xử (26:57–68)

  • Chúa bị Phi-lát xử (27:1–2,11-31)

  • Sự chết và sống lại của Chúa (27:32–56)

  • Giô-sép, người A-ri-ma-thê (27:57–61)

  • Mộ trống (27:62–28:15)

  • Chúa hiện ra sau khi phục sinh (28:9–10)

  • Đại mạng lệnh (28:16–20)

Trích đoạn

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phúc âm Mátthêu** là một trong bốn sách Phúc âm trong Tân Ước viết về cuộc đời, sự chết và Sự phục sinh của Giêsu. Ba Phúc âm còn lại là Phúc âm Mark (Phúc
** Phúc âm Máccô** là một trong bốn sách Phúc âm trong Tân Ước viết về cuộc đời, sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-xu. Ba Phúc âm còn lại là Phúc âm
**Phúc âm Gioan** (theo cách gọi của Công giáo) hay **Phúc âm Giăng** (theo cách gọi của Tin lành) (tiếng Hy Lạp: Εὐαγγέλιον κατὰ Ἰωάννην, chuyển tự Latinh: _Euangélion katà Iōánnēn_) là Sách Phúc Âm
**Phúc âm Luca** là một trong bốn sách Phúc âm trong Tân Ước viết về sự giáng sinh, cuộc đời, sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su. Ba Phúc âm còn lại là
**Phúc Âm**, còn được gọi là **Tin Mừng** (bởi Công giáo Rôma) hay **Tin Lành** (bởi các cộng đồng Kháng Cách), là tên gọi chung để chỉ bốn cuốn sách đầu tiên và cũng là
nhỏ|342x342px|Hơn 3/4 nội dung của Mark được tìm thấy trong Matthew, và phần lớn Mark cũng tương tự như trong Luke. Ngoài ra, Matthew và Luke có cùng một tài liệu mà không có trong
**_Tin Mừng theo thánh Mátthêu_** () là một phim bi kịch tôn giáo của Ý và Tây Đức do Pier Paolo Pasolini đạo diễn, được phát hành năm 1964. Đây là một phim thuật lại
nhỏ|Tranh minh hoạ: Bài giảng về các mối phúc (1886-96) của James Tissot trong loạt phim Cuộc đời Chúa Kitô, Bảo tàng Brooklyn **Các Mối Phúc** (_Beatitudes_) hay **Tám Mối Phúc thật** là phần trọng
**Giới răn trọng nhất** là thuật ngữ được sử dụng để mô tả hai điều răn được Chúa Giêsu cho là quan trọng nhất dành cho mỗi người, được tường thuật trong Mátthêu 22:35-40, Máccô
thumb|_Các mục đồng chiêm bái Giê-su_ (1632), tác phẩm của họa sĩ người Hà Lan [[Matthias Stomer]] _Giêsu giáng sinh_ bên máng cỏ trong hang đá. [[Bích họa màu nước vẽ nhanh khi vữa còn
_Chúa Giêsu đi trên mặt nước_, tranh của [[Ivan Aivazovsky (1888)]] **_Chúa Giêsu đi trên mặt nước_** là một trong những phép lạ của Chúa Giêsu được ghi chép trong các ba sách Phúc Âm:
**Dụ ngôn Lúa mì và Cỏ lùng** được ký thuật trong Phúc âm Mátthêu và trong thứ kinh Phúc âm Toma. Trong dụ ngôn này, Chúa Giê-su nói đến ngày tái lâm của Con người,
nhỏ|phải|Một trang của tác phẩm _Cuộc Thương khó theo Thánh Matthêu_, bút tích của Bach **_Matthäus-Passion_**, **BWV 244** là một bản passion (bài thương khó) của nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach. Ông
**Giêsu chịu phép rửa** bởi Gioan Tẩy Giả là một sự kiện lớn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được mô tả trong ba Phúc Âm: Mátthêu, Máccô và Luca. Sự kiện này được nhìn
**_Dụ ngôn Chiếc lưới_** là một dụ ngôn của Chúa Giêsu được ký thuật trong sách Phúc âm Mátthêu 13:47-52, đề cập đến ngày phán quyết cuối cùng của Thiên Chúa. Đây là dụ ​​ngôn
**_"Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa"_** là một câu nói của Chúa Giêsu được tường thuật trong Phúc Âm Nhất Lãm khi ông dùng nó để trả lời cho
thumb|_The Arrest of Christ_, bức tranh vẽ [[Chúa Giêsu can ngăn sau khi một trong các môn đệ chặt tai một đầy tớ của Thượng tế Caipha.]] "**Ai cầm gươm sẽ bị chết vì gươm**"
_Trốn sang Ai Cập_ bởi [[Giotto di Bondone (1304-06, Nhà thờ Scrovegni, Padua)]] **Trốn sang Ai Cập** là một sự kiện được ghi chép trong Phúc Âm Mátthêu (Mt 02:13 - 23) kể về việc
**_Dụ ngôn Kho báu_** là một dụ ngôn của Chúa Giêsu được chép trong Phúc âm Mátthêu của Tân Ước. Dụ ngôn này minh họa về giá trị lớn lao của Nước Trời, mà đã
nhỏ|_The Holy Innocents_ của [[Giotto di Bondone.]] **Các thánh Anh Hài** là câu chuyện được ghi lại trong Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến vụ thảm sát do Herodes Đại vương (Hêrôđê Cả) -
nhỏ|Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái **_Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái_** là một cụm từ trong giáo lý
Hóa bánh ra nhiều, tranh vẽ của [[Raffaellino del Garbo (1476 hoặc 1466 – 1527)]] **_Hóa bánh ra nhiều_** là tên của hai câu chuyện trong Tân Ước kể về việc Chúa Giêsu làm phép
phải|nhỏ|400x400px|[[Dụ ngôn Kho báu (bên trái) đi cùng với dụ ngôn Ngọc quý (bên phải), tác phẩm kính màu ghép tại Nhà thờ Scots', Melbourne thuộc Giáo hội Trưởng lão]] **Dụ ngôn Ngọc quý** là
**Hai người con** là một dụ ngôn của Chúa Giê-xu được Matthêu chép trong sách Phúc âm mang tên ông ở chương 21 từ câu 28-32. Dụ ngôn này thuật lại cách đối xử của
thumb|Bức tranh mô tả sự phục sinh của Chúa Giêsu _The Resurrection of Jesus Christ_ do [[Raphael phác họa]] **Sự phục sinh của Giêsu** là đức tin trong Kitô giáo, rằng sau khi Giêsu chịu
nhỏ|phải|Bản Kinh Lạy Cha bằng [[tiếng Swahili]] **Kinh Lạy Cha** là một bài kinh và là lời cầu nguyện được biết đến nhiều nhất trong Kitô giáo. Mặc dù có nhiều quan điểm thần học,
_Người Samari nhân lành_, tranh Pelegrín Clavé y Roqué_ (1838)_**Người Samari nhân lành** hay **Người Samari nhân đức** là một dụ ngôn được Lu-ca ghi lại trong sách Phúc âm mang tên ông. Nhiều người
**Dụ ngôn Người Khôn xây Nhà trên Đá** của Chúa Giê-xu được chép trong Tân Ước. Ý niệm Chúa Giê-xu là nền tảng vững chãi và chắc chắn (vầng đá) được tìm thấy không chỉ
_Người làm công trong vườn nho_
tranh gỗ của Jacob Willemszoon de Wet, thế kỷ 17 **Người làm công trong Vườn nho** là một dụ ngôn của Chúa Giê-xu được ký thuật trong Phúc âm Matthew.
phải|nhỏ|Amminadab, tổ tiên của David (bích họa [[Nhà nguyện Sistina|nhà nguyện Sistine, vẽ bởi Michelangelo)]] nhỏ|Một cận cảnh về Amminadab từ bích họa nhà nguyện Sistine
**Amminadab **(, "Người thân tộc cao quý") là
Tranh của [[Peter von Cornelius (1813).]] **Mười trinh nữ** là dụ ngôn của Chúa Giê-su được Matthew ghi lại trong sách phúc âm mang tên ông (Matthew 25:1-13). Dụ ngôn thuật lại câu chuyện về
**_Dụ ngôn Tên mắc nợ không biết thương xót_** hay "tên đầy tớ không biết thương xót" là một dụ ngôn của Chúa Giêsu được ghi chép trong Tân Ước, đề cập đến lòng bao
**Mátthêu** hoặc **Mátthêô** (מתי / מתתיהו, Mattay hoặc Mattithyahu; tiếng Hy Lạp: Ματθαίος, Matthaios, Hy Lạp hiện đại: Ματθαίος, Matthaíos) là một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Kitô giáo,
**Cá rô phi** là tên thông thường của một nhóm loài cá nước ngọt phổ biến, nhưng một số loài trong chúng cũng có thể sống trong các môi trường nước lợ hoặc nước mặn,
**Tân Ước**, còn gọi là **Tân Ước Hi văn** hoặc **Kinh Thánh Hi văn** (Tiếng Anh: _New Testament_) là phần cuối của Kinh Thánh Kitô giáo, được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác
**Thánh Giuse** (hay **Yuse** từ tiếng Ý **Giuseppe**, từ tiếng Do Thái: יוֹסֵף "Yosef"; tiếng Hy Lạp: Ἰωσήφ; từ tiếng Anh: **Joseph**,đôi khi cũng được gọi là **Thánh Giuse Thợ**, hoặc **Thánh Cả Giuse**, **Giuse
nhỏ|phải|Bức họa của Raffael về Thiên Chúa và Bốn hình hài (Bốn con vật) **Bốn hình hài** (_Tetramorph_) hay còn gọi là **bốn sinh vật** là một sự sắp xếp tượng trưng của bốn (4)
thumb|Đức Giêsu chữa lành Batimê, tượng của Johann Heinrich Stöver, năm 1861 **Đức Giêsu chữa lành người mù Ở Giêrikhô** là một phép lạ của Đức Giêsu được mô tả trong cả ba Phúc âm
Bốn sách Phúc âm trong Tân Ước là nguồn tư liệu chính cho câu chuyện kể của tín hữu Cơ Đốc về cuộc đời Chúa Giê-su. ## Gia phả và Gia đình Có hai ký
**Phongxiô Philatô** hay **Bôn-xơ Phi-lát** (; , _Pontios Pīlātos_) là tổng trấn thứ năm của tỉnh La Mã Judaea từ năm 26 tới năm 36 sau Công nguyên dưới thời hoàng đế Tiberius, và nổi
**Sông Jordan** (tiếng Hebrew: נהר הירדן _nehar hayarden_, tiếng Ả Rập: نهر الأردن _nahr al-urdun_) là một sông ở Tây Nam Á, chảy từ chân núi Hermon vào biển Chết. Sông này được coi là
thumb|”Chúa Giêsu chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô'', tranh của John Bridges vào năm 1839. **Đức Giêsu chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô** là một phép lạ của Đức Giêsu được mô tả
nhỏ| Trình chiếu về cuộc đời của [[Giê-su tại Igreja da Cidade trực thuộc Hội nghị Baptist Brazil, ở São José dos Campos, Brazil, 2017.]] **Baptist** (phiên âm: _Báp-tít_) là một nhóm các giáo hội
**_Dụ ngôn Người tôi tớ trung tín_** là một dụ ngôn của Chúa Giêsu được ghi chép trong ba Phúc âm: Mátthêu 24:42-51, Máccô 13:34-37 và Luca 12:35-48 - thường được gọi chung là Phúc
thumb|[[Bữa ăn tối cuối cùng (Leonardo da Vinci)|_Bữa ăn tối cuối cùng_, tranh vẽ cuối những năm 1490 của họa sĩ Leonardo da Vinci, miêu tả cảnh bữa tối Chúa Giê-su và 12 tông đồ]] **Mười
**Nazareth** (; , _Natzrat_ hoặc _Natzeret_; _an-Nāṣira_ or _an-Naseriyye_) là thủ phủ và thành phố lớn nhất vùng phía bắc Israel, được gọi là thủ đô Ả Rập của Israel vì dân số phần lớn
Bản Kinh Thánh viết tay [[tiếng La Tinh, được trưng bày ở Tu viện Malmesbury, Wiltshire, Anh. Quyển Kinh Thánh này được viết tại Bỉ vào năm 1407 CN, dùng để xướng đọc trong tu
thumb|"Chúa Giêsu chữa lành người mù", tranh của [[Andrei Mironov (họa sỹ)|A. Mironov]] **Đức Giêsu chữa lành một người mù thành Bếtxaiđa** là một phép lạ của Đức Giêsu chỉ được mô tả trong Phúc
**Nhà thờ Giáng Sinh** là một vương cung thánh đường ở Bethlehem, thuộc vùng lãnh thổ của Nhà nước Palestine. Nhà thờ này nguyên thủy do Constantinus Đại đế và hoàng thái hậu Helena xây
**Vị Mục Tử nhân lành** (, _poimḗn ho kalós_) là một hình ảnh được nhắc đến trong đoạn văn Kinh Thánh thuộc sách Tin Mừng theo thánh Gioan (Gioan 10:1–21), trong đó Chúa Giêsu Kitô