Nền kinh tế thực liên quan đến sản xuất, thu mua, luân chuyển hàng hóa và dịch vụ (như dầu, bánh mì và lao động) trong một nền kinh tế. Nó đối lập với nền kinh tế tài chính, cái mà đề cập đến những khía cạnh chủ yếu giao dịch tiền tệ và các tài sản tài chính khác, điều này thể hiện quyền sở hữu hoặc yêu cầu quyền sở hữu đối với hàng hóa và dịch vụ trong khu vực sản xuất.
Trong nền kinh tế thực, chi tiêu được xem là "thật" vì tiền được sử dụng để thực hiện các cuộc giao dịch hiện vật, ví dụ trả lương cho nhân viên nhằm thực hiện lao động, thanh toán hóa đơn cung cấp nhiên liệu hoặc mua thực phẩm để tiêu dùng. Giao dịch bao gồm việc chuyển giao một thứ gì đó ngoài tiền hoặc tài sản tài chính. Theo cách này, nền kinh tế thực tập trung vào các hoạt động cho phép con người trực tiếp thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của họ, ngoại trừ mục đích đầu cơ. Các nhà kinh tế ngày càng quan đến đến nền kinh tế thực (và tác động của nó với nền kinh tế tài chính) vào cuối thế kỷ 20 do tài chính hóa toàn cầu ngày một tăng, được Krippner mô tả là "một mô hình tích lũy trong đó lợi nhuận tích lũy chủ yếu thông qua các kênh tài chính thay vì thương mại và sản xuất hàng hóa ”.
Khu vực sản xuất dễ dàng bị tác động bởi hiệu ứng thanh khoản đối với giá tài sản, ví dụ như nếu thị trường bị bão hòa thì giá tài sản sụt giảm. Trong khu vực sản xuất, điều bất ổn này cho thấy tổng cầu suy giảm (nhu cầu về tiền tăng trong lĩnh vực tiền tệ).
Lý thuyết kinh tế học Keynes phản đối sự phân đôi cổ điển. Những người theo thuyết Keynes và những người theo chủ nghĩa tiền tệ bác bỏ nó trên cơ sở là giá cả không biến động - giá cả không thể điều chỉnh trong ngắn hạn, do đó sự gia tăng cung tiền làm tăng tổng cầu và cũng làm thay đổi các biến kinh tế vĩ mô thực. Những người theo trường phái hậu Keynes cũng phản đối sự phân đôi cổ điển vì những lý do khác nhau, chúng đều nhấn mạnh vai trò của ngân hàng trong việc tạo ra tiền, như trong lý thuyết mạch tiền tệ.
Lý thuyết thị trường phân đôi đề xuất rằng các tác động của lĩnh vực sản xuất độc lập với lĩnh vực tiền tệ, nó cũng liên quan đến lý thuyết về tính trung lập của tiền.
Biến thực
Vì nền kinh tế thực đề cập đến tất cả các thành phần thực hoặc phi tài chính trong một nền kinh tế, nó có thể được cấu tạo bằng cách chỉ dùng các biến thực mà không cần hệ thống tiền tệ để vận hành. Với cách này, các biến thực là:
- Tiền lương: không cần phải được biểu thị dưới dạng tiền tệ, chúng có thể được biểu thị bằng các điều kiện thật trong bất kỳ đơn vị thực nào
** Ví dụ: 5 quả cam cho một giờ làm việc (điều này liên quan đến khái niệm sức mua tương đương được thể hiện trong Chỉ số Big Mac)
- Sản lượng: có thể được thể hiện dưới dạng đơn vị thực
** Ví dụ: một công ty nội thất sản xuất 20 bàn và 40 ghế mỗi ngày
Nền kinh tế tài chính vs. Nền kinh tế thực
Theo lý thuyết phân đôi cổ điển, nền kinh tế danh nghĩa và nền kinh tế thực có thể được phân tích theo một cách riêng biệt. Các nhà kinh tế học chính thống thường xem thị trường tài chính như một phương tiện cân bằng tiết kiệm và đầu tư, nó được phân bổ giữa các ngành theo cách dùng tốt nhất được cố định bởi các nguyên tắc cơ bản trong nền kinh tế. Do đó, các ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa tiết kiệm và đầu tư. Thị trường tài chính, theo giả thuyết thị trường hiệu quả, được cho là hiệu quả khi dựa trên tất cả các thông tin sẵn có. Lãi suất thị trường bị tác động bởi cung và cầu vốn vay.
Có một số tranh cãi về việc liệu lĩnh vực tài chính và thị trường tài sản có ảnh hưởng đến nền kinh tế thực hay không. Nhà kinh tế học Mathias Binswanger đã chứng minh rằng kể từ những năm 1980, các kết quả của thị trường chứng khoán dường như không gây ra sự gia tăng trong hoạt động kinh tế thật, trái ngược với kết quả được tìm thấy ở Fama (1990), người đã phát hiện ra rằng sự gia tăng trên thị trường chứng khoán có vẻ dẫn đến sự gia tăng trong nền kinh tế thực. Binswanger cho rằng sự khác biệt này dựa trên khả năng xảy ra bong bóng đầu cơ đối với nền kinh tế trong những năm 1980 và 1990. Thông qua việc phân tích bảy nước, nhà kinh tế học Kateřina Krchnivá nhận thấy rằng sự gia tăng trên thị trường chứng khoán dự đoán cho sự gia tăng của nền kinh tế thực với độ trễ khoảng một phần tư mà không có bất kỳ mối quan hệ phản hồi nào theo chiều ngược lại.
Irving Fischer đã phát triển học thuyết về giảm phát nợ trong thời kỳ Đại Khủng hoảng để giải thích mối liên kết giữa lĩnh vực tài chính và nền kinh tế thực. Trong mô hình của ông, suy thoái kinh tế và khủng hoảng kinh tế được tạo ra do tăng gánh nợ thực từ hiện tượng giảm phát. Kết quả, thanh lý nợ xảy ra kéo theo việc bán chứng khoán tịch biên với giá rẻ và rút lại khoản tiền gửi. Điều này dẫn đến mức giá giảm hơn nữa cùng với làn sóng các doanh nghiệp phá sản khiến sản lượng, thương mại và việc làm suy giảm. Sự bi quan và mất niềm tin trỗi dậy khiến tích trữ tiền tệ tiếp tục và dòng tiền lưu thông chậm hơn, gây ra những hỗn loạn phức tạp trong lãi suất. Cách khắc phục của Fischer khi chuỗi sự kiện này xảy ra là điều chỉnh giá trở lại mức ban đầu, ngăn chặn "vòng luẩn quẩn" của giảm phát nợ.
Ngoài ra, John Maynard Keynes đã đề xuất học thuyết ưa chuộng tính thanh khoản như một phương tiện giải thích những thay đổi về tính thanh khoản của các nhà đầu tư dựa trên việc ưa chuộng không ổn định của họ trên thị trường tài chính có thể dẫn đến những thay đổi trong các biến thực như sản lượng và việc làm như thế nào. Do đó, dưới những điều kiện rủi ro cơ bản, tính thanh khoản vô cùng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Kinh tế học Keynes quan tâm đến các cách xác định sự ưa thích thanh khoản của các nhà đầu tư thông qua các nguồn chính sách tài khóa và tiền tệ để đạt được toàn dụng lao động. Cơ quan quản lý tiền tệ có thể khuyến khích đầu tư tư nhân nhiều hơn qua sự suy giảm của lãi suất, trong khi chính sách tài khóa là một cán cân thương mại tích cực và mở rộng tín dụng nhà ở cũng có thể dẫn đến tăng trưởng vượt bậc trong nền kinh tế thực.
Nguồn tham khảo
;Nguồn
- Brender, A., Pisani, F. and Gagna, E. (2015). [https://books.google.com/books?id=UO0UrgEACAAJ&dq=%22real+economy%22&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwiSs__ovdTKAhWBQhQKHY7lDIAQ6AEIOjAF/ Money, Finance, and the Real Economy: What Has Gone Wrong?] Centre for European Policy Studies, Brussels.
- Christensen, Alex (2015). [http://globalriskinsights.com/2015/10/where-do-financial-markets-end-and-the-real-economy-begin/ "Where do financial markets end and the 'real economy' begin?] Globalriskinsights.com.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nền kinh tế thực** liên quan đến sản xuất, thu mua, luân chuyển hàng hóa và dịch vụ (như dầu, bánh mì và lao động) trong một nền kinh tế. Nó đối lập với nền
**G20** hay **Nhóm 20** (tiếng Anh: Group of Twenty) (tiếng Pháp: Groupe des vingt) là diễn đàn quốc tế chính thức dành cho các Nguyên thủ và Thống đốc ngân hàng trung ương đến từ
**Nền kinh tế nền tảng** (trong tiếng Anh gọi là **Platform Economy**) được hiểu là một phần của nền kinh tế mà tại đó các hoạt động kinh tế và xã hội được diễn ra
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Nền kinh tế quà tặng** hay **văn hóa quà tặng** là một hệ thống trao đổi trong đó người ta tặng nhau những món quà có giá trị, mà không cần trả tiền hoặc có
Lý thuyết **nền kinh tế Robinson Crusoe** là một lý thuyết nền tảng được dùng để nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong kinh tế. Lý thuyết trên đưa ra giả thuyết về một
Vị trí các nền kinh tế đang nổi lên trên bản đồ thế giới, theo [[Morgan Stanley Capital International 2006]]**Các nền kinh tế đang nổi lên** là những nền kinh tế đang trong giai đoạn
**Khu vực bốn của nền kinh tế** là cách để miêu tả một bộ phận dựa trên tri thức của nền kinh tế - điển hình là các dịch vụ như công nghệ thông tin,
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Kinh tế** (Tiếng Anh: _economy_) là một lĩnh vực sản xuất, phân phối và thương mại, cũng như tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Tổng thể, nó được định nghĩa là một lĩnh vực
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
**Chế độ tự cung tự cấp**, với tư cách là một lý tưởng hoặc cách thức, được chấp nhận bởi một loạt các hệ tư tưởng và phong trào chính trị, đặc biệt là các
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Kinh tế kế hoạch** (còn được gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế chỉ huy) là một nền kinh tế-xã hội trong đó Chính phủ và Nhà nước kiểm
**Kinh tế ảo** là nền kinh tế mới nổi tồn tại trong thế giới ảo, thường trao đổi hàng hóa ảo trong bối cảnh của một trò chơi trực tuyến, đặc biệt là trong các
nhỏ|Lương trung bình hàng tháng ở các tỉnh Ukraine tháng 7/ 2019 **Dữ liệu** **kinh tế** hoặc **thống kê kinh tế** là dữ liệu (các biện pháp định lượng) mô tả một nền kinh tế
**Kinh tế thế giới** là toàn bộ quá trình hoạt động của các nền kinh tế trong khối kinh tế chung toàn cầu, đó là nền kinh tế của hơn 190 nước (194 nước chính
Với 3,405 ngàn tỷ euro tổng sản phẩm quốc nội, nước Đức có nền kinh tế đứng hàng thứ tư trên thế giới và lớn nhất châu Âu. Tính đến cuối năm 2019, Đức là
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
**Kinh tế học phát triển** là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đi tìm các phương thức để đưa một nền kinh tế kém phát triển thành một nền kinh tế thịnh
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Kinh tế chia sẻ** là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Kinh tế ngầm** là một khu vực kinh tế nơi mà tất cả các hoạt động thương mại được tiến hành mà không có sự kiểm soát, thống kê của cơ quan nhà nước (thuế,
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
Canada là quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao. Năm 2020, Canada là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 9 thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 15
**Kinh tế Israel** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với mức độ công nghiệp hóa, kỹ nghệ cùng hàm lượng tri thức cao, đây là quốc gia có
**Nền kinh tế của Singapore** là một nền kinh tế thị trường tự do với mức độ phát triển cao và được xếp hạng là nền kinh tế mở nhất trên thế giới với mức
**Nền kinh tế Bồ Đào Nha** là nền kinh tế lớn thứ 34 theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới trong năm 2019. Phần lớn hoạt động thương
**Kinh tế Ấn Độ** là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới đang phát triển, lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), thứ 7 trên thế giới
**Nền kinh tế Ý** là nền kinh tế quốc gia lớn thứ ba của Liên minh châu Âu, lớn thứ tám tính theo GDP danh nghĩa của thế giới và lớn thứ 12 theo GDP
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
**Kinh tế Mexico** là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ 15 trên thế giới. Kể từ cuộc khủng hoảng 1994, chính phủ México đã có những cải cách đáng
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
nhỏ|phải|Tòa nhà quốc hội Cuba **Cải cách kinh tế Cuba** đề cập đến các chính sách kinh tế vĩ mô được thực hiện với mục đích ổn định nền kinh tế Cuba sau năm 1993.
thumb|Hội nhập kinh tế: [[Mercosur]] **Hội nhập kinh tế**, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu
**Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa** là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của Việt Nam. Nó được mô tả
**Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986** nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất
Brasil có nền kinh tế hỗn hợp đang phát triển, năm 2021 quốc gia này là nền kinh tế lớn thứ mười hai trên thế giới tính theo tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa