Mộ Dung Vĩ () (350–385), tên tự Cảnh Mậu (景茂), gọi theo thụy hiệu là (Tiền) Yên U Đế ((前)燕幽帝, thụy hiệu do thúc phụ Mộ Dung Đức truy phong, Mộ Dung Đức là hoàng đế nước Nam Yên) là hoàng đế cuối cùng của nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 10 tuổi. Vào cuối thời gian trị vì của ông, quyền lực nằm trong tay của Khả Túc Hồn thái hậu và thúc tổ Mộ Dung Bình bất tài và tham nhũng. Ông bị thừa tướng Vương Mãnh của Tiền Tần bắt được vào năm 370, Tiền Yên diệt vong. Sau đó, trong giai đoạn Tiền Tần suy sụp sau thất bại trong trận Phì Thủy năm 383, ông đã cố gắng cùng đệ là Mộ Dung Xung tiến hành nổi loạn và bị hoàng đế Phù Kiên xử tử vào đầu năm 385.
Đầu đời
Mộ Dung Vĩ sinh năm 350, khi đó phụ thân Mộ Dung Tuấn đang trị vì, một năm trước khi ông ta xưng đế. Mẫu thân của Mộ Dung Vĩ là Khả Túc Hồn hoàng hậu. Vào thời điểm đó, huynh trưởng của Mộ Dung Vĩ là Mộ Dung Diệp (慕容曄), đang là thái tử. Năm 354, Mộ Dung Vĩ được phong tước Trung Sơn vương.
Năm 356, Mộ Dung Diệp qua đời. Ngày Quý Sửu (23) tháng 2 năm Đinh Tị (29 tháng 3 năm 357), Mộ Dung Tuấn lập Trung Sơn vương Mộ Dung Vĩ làm thái tử. Năm 359, tại một yến tiệc cùng quần thần, Mộ Dung Tuấn nhớ Thái tử Diệp và than khóc. Một trong các thuộc hạ trước đây của Mộ Dung Diệp, Tư đồ tả trưởng sử Lý Tích (李績), tán dương tám đại đức của Mộ Dung Diệp. Mộ Dung Tuấn sau đó hỏi ý kiến của ông ta về Mộ Dung Vĩ, và họ Lý trả lời:
:Hoàng thái tử có tài trời ban, và đã đạt bát đức. Tuy nhiên, có hai thiếu sót mà cần phải tự tra xét: ham mê quá mức du điền và nhạc. Cả hai đều có hại cho đất nước.
Mộ Dung Vĩ cũng có mặt và bị Mộ Dung Tuấn yêu cầu tự xem lại mình, từ đó ông bất bình với Lý Tích.
Tháng giêng năm Canh Thân (360), Mộ Dung Tuấn lâm bệnh và do Mộ Dung Vĩ lúc này vẫn còn nhỏ tuổi, ông ta định nhường ngôi lại cho Thái Nguyên vương-Đại tư mã Mộ Dung Khác. Tuy nhiên, Mộ Dung Khác từ chối và thuyết phục Mộ Dung Tuấn rằng mình cũng có thể hỗ trợ vị hoàng đế trẻ tuổi. Mộ Dung Tuấn sau đó ủy thác Thái tử cho Mộ Dung Khác, Tư đồ Mộ Dung Bình, và Lãnh quân tướng quân Mộ Dư Căn (慕輿根) nhận chiếu phụ chính. Thái tử Mộ Dung Vĩ tức vị ngày Mậu Tý (15) tháng 1 (17 tháng 2), đến ngày Giáp Ngọ (21) cùng tháng (23 tháng 2), Mộ Dung Tuấn mất.:
Mộ Dung Khác nhiếp chính
Sang tháng 2 ÂL, Khả Túc Hồn hoàng hậu được tôn làm hoàng thái hậu, Thái Nguyên vương Mộ Dung Khác được bổ nhiệm làm Thái tể và quản lý triều chính, Thượng Dung vương Mộ Dung Bình được bổ nhiệm làm Thái phó, Dương Vụ (陽騖) làm Thái bảo, Mộ Dư Căn làm Thái sư, tham gia phụ chính. Mộ Dư Căn là một viên quan trẻ, không bằng lòng với vị trí là thuộc hạ của Mộ Dung Khác, sau đó vu cáo với Mộ Dung Vĩ và Khả Túc Hồn thái hậu rằng Mộ Dung Khác và Mộ Dung Bình lập mưu nổi loạn và yêu cầu được suất cấm binh tấn công họ. Thái hậu tin lời Mộ Dư Căn song Mộ Dung Vĩ thì không và từ chối cho phép. Mộ Dung Khác sau đó đã phát hiện ra sự việc, Mộ Dư Căn cùng gia tộc bị hành quyết.:
Ngày Giáp Tý (15) tháng 4 năm Kỉ Tị (5 tháng 6 năm 369), Mộ Dung Vĩ lấy con gái của Thượng thư lệnh-Dự Chương công Khả Túc Hồn Dực (可足渾翼) làm hoàng hậu, Dực là tụng đệ của Khả Túc Hồn thái hậu.
Cũng trong năm đó, tướng Hoàn Ôn của Tấn mở một chiến dịch lớn chống lại Tiền Yên, tiến đến Phương Đầu (枋頭, nay thuộc Hạc Bích, Hà Nam), nằm lân cận kinh thành của Tiền Yên là Nghiệp Thành, đánh bại mọi đội quân Tiền Yên cử đến, bao gồm cả một đại quân do huynh của Mộ Dung Vĩ là Lạc An vương Mộ Dung Tang (慕容臧) chỉ huy. Tháng 7 ÂL, Mộ Dung Vĩ và Mộ Dung Bình hoảng sợ và muốn bỏ Nghiệp Thành để trở về cố đô Hà Long (和龍, nay thuộc Cẩm Châu, Liêu Ninh). Tuy nhiên, Mộ Dung Thùy tình nguyện tiến hành một cuộc kháng cự cuối cùng, và được phong làm 'sứ trì tiết', 'Nam thảo đại đô đốc', suất năm vạn quân kháng cự Hoàn Ôn. Trong khi đó, Mộ Dung Vĩ cũng cử sứ thần đến Tiền Tần để yêu cầu trợ giúp, hứa sẽ cắt vùng Lạc Dương cho Tiền Tần để đổi lấy cứu trợ. Mộ Dung Thùy và một thúc phụ khác của Mộ Dung Vĩ là Mộ Dung Đức ngay sau đó đã giáng cho Hoàn Ôn một thất bại lớn, quân Tiền Tần đến nơi và cũng đánh bại Hoàn Ôn trong một trận khác.
Tuy nhiên, đến mùa xuân năm 384, Mộ Dung Thùy đã bắt đầu nổi dậy ở phần phía đông của đế quốc (lãnh thổ Tiền Yên trước đây), và ngay sau đó hội quân cùng các quý tộc và quan lại Tiền Yên trước đây để lập nên Hậu Yên. Hay tin, các đệ của Mộ Dung Vĩ là Mộ Dung Hoằng và Mộ Dung Xung cũng nổi dậy gần Trường An. Mộ Dung Hoằng đã cử một sứ giả yêu cầu Phù Kiên đưa Mộ Dung Vĩ đến chỗ mình và hứa sẽ dâng Quan Trung nếu Mộ Dung Vĩ được thả. Phù Kiên trở nên giận dữ và quở trách Mộ Dung Vĩ, Mộ Dung Vĩ khẩn nài và hứa sẽ tiếp tục là một thần dân trung thành. Phù Kiên vẫn cho ông giữ chức vụ, song bị Phù Kiên bắt viết một lá thư cho Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Hoằng và Mộ Dung Xung để bảo họ đầu hàng, Mộ Dung Vĩ lại viết rằng:
:Ta là người trong lồng, tất không thể hoàn lý. Hơn nữa, ta cũng là tội nhân của Yên thất, và các ngươi không nên lo cho ta, hãy lập nên đại nghiệp của mình.
Tuy nhiên, Mộ Dung Hoằng ngay sau đó bị ám sát, và Mộ Dung Xung trở thành lãnh đạo quân nổi dậy Tiên Ti và cuối cùng lập nước Tây Yên. Mộ Dung Xung bao vây Trường An và yêu cầu Phù Kiên đem Mộ Dung Vĩ đến chỗ mình. Trong khi đó, Mộ Dung Vĩ và [đường] huynh là Mộ Dung Túc (慕容肅) tổ chức những người Tiên Ti tại Trường An, chuẩn bị nổi dậy để hội quân với Mộ Dung Xung. Tháng 12 ÂL cùng năm (đầu năm 385), Mộ Dung Vĩ mời Phù Kiên đến tư gia, giả vờ rằng kì tử tân hôn, sẵn sàng ám sát Phù Kiên tại tiệc rượu. Phù Kiên đã đồng ý tham sự song đã không thể đến do trời mưa, tin tức về âm mưu đã bị lộ. Phù Kiên triệu Mộ Dung Vĩ và Mộ Dung Túc vào cung. Mộ Dung Túc muốn từ chối và ngay lập tức nổi dậy song Mộ Dung Vĩ từ chối và cả hai cùng vào cung. Phù Kiên đặt câu hỏi về âm mưu của họ, và trong khi Mộ Dung Vĩ vẫn cố gắng phủ nhận thì Mộ Dung Túc đã tự đắc thừa nhận, Phù Kiên cho giết cả hai cũng như những người Tiên Ti còn lại trong thành.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mộ Dung Vĩ** () (350–385), tên tự **Cảnh Mậu** (景茂), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Yên U Đế** ((前)燕幽帝, thụy hiệu do thúc phụ Mộ Dung Đức truy phong, Mộ Dung Đức là hoàng
**Mộ Dung Tuấn** () (319–360), tên tự **Tuyên Anh** (宣英), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Yên Cảnh Chiêu Đế** ((前)燕景昭帝), là một hoàng đế nước Tiền Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Mộ Dung Khác** (chữ Hán: 慕容恪, ?–367), tên tự là **Huyền Cung** (玄恭), là tôn thất, người nhiếp chính ở nước Tiền Yên, một trong mười sáu nước Ngũ Hồ trong lịch sử Trung Quốc.
**Mộ Dung Hoảng** () (297–348), tên tự **Nguyên Chân** (元真), là một người cai trị nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc và được công nhận rộng rãi
**Mộ Dung Hối** (chữ Hán: 慕容廆, bính âm Mùróng Guī, 269 — 333, tên tự **Dịch Lặc Côi** (弈洛瓌), quê ở Cức Thành, Xương Lê là thủ lĩnh thuộc bộ tộc của người Tiên Ti
**Mộ Dung Thùy** () (326–396), tên tự **Đạo Minh** (道明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Vũ Thành Đế** ((後)燕武成帝) là một đại tướng của nước Tiền Yên và sau này trở thành hoàng
**Mộ Dung Đức** () (336–405), năm 400 đổi tên thành **Mộ Dung Bị Đức** (慕容備德), tên tự **Huyền Minh** (玄明), gọi theo thụy hiệu là **(Nam) Yên Hiến Vũ Đế** ((南)燕獻武帝), là hoàng đế khai
**Mộ Dung Thịnh** () (373–401), tên tự **Đạo Vận** (道運), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Chiêu Vũ Đế** ((後)燕昭武帝), là một hoàng đế của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Mộ Dung Hoằng** () (?-384) là người sáng lập ra nước Tây Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số các con trai của hoàng
**Mộ Dung Xung** () (359–386), gọi theo thụy hiệu là **(Tây) Yên Uy Đế** ((西)燕威帝), là vua thứ 2 nước Tây Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Mộ Dung Hi** () (385–407), tên tự là **Đạo Văn** (道文), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Chiêu Văn Đế** ((後)燕昭文帝), là một hoàng đế của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc.
**Mộ Dung Lân** (, ?-398) là một tướng lĩnh và một thân vương của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những người con trai của hoàng đế khai quốc
**Mộ Dung Siêu** () (385–410), tên tự **Tổ Minh** (祖明), là hoàng đế cuối cùng của nước Nam Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Ông là cháu họ của hoàng đế khai quốc Mộ
**Mộ Dung Thuận** (, ?- 635), hiệu là **Truật Cố Lã Ô Cam Đậu khả hãn** (趉故呂烏甘豆可汗) giản lược là **Cam Đậu khả hãn** (甘豆可汗), tước hiệu nhà Đường **Tây Bình vương** (西平王), là một
**Mộ Dung Phục Doãn** (, 597–635), hiệu là **Bồ Tát Bát khả hãn** (步薩鉢可汗), là một quân chủ của nước Thổ Dục Hồn. Ông đăng cơ sau khi người anh trai Mộ Dung Thế Phục
**Mộ Dung Nặc Hạt Bát** (, ?- 688), tước hiệu là **Ô Địa Dã Bạt Lặc Đậu khả hãn** (烏地也拔勒豆可汗) hay giản hóa thành **Lặc Đậu khả hãn** (勒豆可汗), tước hiệu nhà Đường **Thanh Hải
**Mộ Dung Thiệu Tông** (chữ Hán: 慕容绍宗, 501 – 549), người dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là hậu duệ của Thái Nguyên
**Mộ Dung Bảo** () (355–398), tên tự **Đạo Hựu** (道佑), là hoàng đế thứ nhì của nước Hậu Yên thời Thập Lục Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi Mộ Dung Thùy kiến lập
**Mộ Dung Vĩnh** () (?-394), tên tự **Thúc Minh** (叔明), là vua thứ 7 và cũng là vua cuối cùng của nước Tây Yên vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung
**Mộ Dung Lệnh** (慕容令) hay **Mộ Dung Toàn** (慕容全) là trưởng tử và thế tử của Ngô vương Mộ Dung Thùy nước Tiền Yên. Mẹ của ông là tiên Đoàn phi. Năm Kiến Hi thứ
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
NẸP GIẦY H11. Chức năng:- Cố định cổ bàn chân khoèo của trẻ về đúng vị trí.- Chỉnh sửa các biến dạng khoèo theo chỉ định của bác sĩ.2. Chỉ định:- Trẻ có bàn chân
**Mộ Dung Hàn** (chữ Hán: 慕容翰, ? - 344), tên tự là **Nguyên Ung**, quê ở Chức Thành, huyện Xương Lê, là một tướng lĩnh và quý tộc người Tiên Ti cát cứ ở miền
**Mộ Dung Thổ Dục Hồn** (, 246-317) là người kiến lập nên nước Thổ Dục Hồn, là thủy tổ của những người cai trị Thổ Dục Hồn sau này. Ông là con trai trưởng của
**Mộ Dung Thiệp Quy** (, ?- 12/283) là một tù trưởng Mộ Dung bộ Tiên Ti. Ông là cháu nội của tù trưởng Mạc Hộ Bạt, và là con trai của tù trưởng Mộ Dung
Thể tích : 400mlXuất xứ : PHÁPSữa tắm dạng gel tạo bọt cực mịn, nhẹ nhàng lấy đi bụi bẩn, mồ hôi, vi khuẩn trên khắp cơ thể, giúp tạo cảm giác thoải mái, yêu
Thể tích : 400mlXuất xứ : DuBaiSữa tắm dạng gel tạo bọt cực mịn, nhẹ nhàng lấy đi bụi bẩn, mồ hôi, vi khuẩn trên khắp cơ thể, giúp tạo cảm giác thoải mái, yêu
Thể tích 400mlGiống với mùi hương Good girl nổi tiếng của Cha.nel, thơm nhẹ nhàng, quyến rũ, lan tỏa theo từng cử động mỗi bước chân cứ như đang dùng nước hoa vậy đó.Sữa tắm
nhỏ|phải|họ Mộ Dung viết bằng chữ Hán **Mộ Dung** (chữ Hán: 慕容, Bính âm: Murong, Việt bính: Mou6 jung4) là một họ của người Trung Quốc. Mộ Dung là một trong 60 họ kép (gồm
**Mộ Dung Trung** () (?-386) là vua thứ 6 nước Tây Yên của người Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai của người sáng
**Mộ Dung Nghĩ** () (?-386) là vua thứ 4 nước Tây Yên của người Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số các con
**Mộ Dung Nạp** (, ? - ?), người Tiên Ti, là hoàng tử của hoàng đế Mộ Dung Hoảng nước Tiền Yên thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Đồng thời, ông cũng là anh trai
**Mộ Dung Tường** (, ? - 397) là một thành viên tông thất Hậu Yên. Năm Vĩnh Khang thứ 2 (397), Hậu Yên không địch nổi cuộc tấn công của nước Bắc Ngụy, hoàng đế
**Đạo Vũ Mộ Dung Hoàng hậu** (chữ Hán: 道武慕容皇后), là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế Thác Bạt Khuê - vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Nguỵ trong lịch
I, Cách phân biệt tinh bột nghệ và bột nghệTinh bột nghệ là thành phẩm từ củ nghệ tươi. Nghệ tươi nguyên chất sau khi trải qua quá trình tách lọc, loại bỏ các tạp
nhỏ|250x250px|Cây vĩ cầm Baroque Jacob Stainer từ năm 1658 **Vĩ cầm Baroque** là một dòng vĩ cầm được tạo ra theo cách thức và tính chất của thời kỳ âm nhạc baroque. Thuật ngữ này
phải|Một mẫu dầu mỏ ở dạng nguyên thể phải|Giếng bơm dầu gần Sarnia, Ontario, [[Canada]] phải|Một công trường khai thác dầu tại [[Mina Al Ahmadi, Kuwait]] **Dầu mỏ** hay **dầu thô** là một chất lỏng
phải|nhỏ| Một [[Tập đoàn (sinh học)|tập đoàn sinh học của vi khuẩn _Escherichia coli_ được chụp hình phóng đại 10.000 lần.]] **Vi sinh vật** (, hay _microbe_) là một sinh vật có kích thước siêu
**Thú mỏ vịt** (tên khoa học: **_Ornithorhynchus anatinus_**) là một loài động vật có vú đẻ trứng bán thuỷ sinh đặc hữu của miền đông Úc, bao gồm cả Tasmania. Dù đã khai quật được
**Độc lực** là phương thức để phát động quá trình nhiễm trùng và gây bệnh của vi khuẩn. ## Các yếu tố bám dính Bước quan trọng đầu tiên trong quá trình tương tác giữa
nhỏ|Một góc của Thung lũng các vị vua **Thung lũng các vị Vua** (; ), một số ít thường gọi là Thung lũng cổng vào các vị vua (tiếng Ả Rập: وادي ابواب الملوك Wādī