✨McDonnell F-101 Voodoo
Chiếc McDonnell F-101 Voodoo là một kiểu máy bay tiêm kích siêu thanh được sử dụng trong Không quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia Canada. Ban đầu được thiết kế như là một máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa (được biết đến như là máy bay tiêm kích xâm nhập) dành cho Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược, chiếc Voodoo phục vụ trong nhiều vai trò khác, bao gồm máy bay tiêm kích-ném bom, máy bay tiêm kích đánh chặn hoạt động trong mọi thời tiết và máy bay trinh sát hình ảnh. Kiểu máy bay Voodoo trinh sát hình ảnh là phương tiện được sử dụng trong Sự kiện tên lửa Cuba và được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam, khởi đầu trong Sự kiện Pueblo.
Thiết kế và phát triển
Những thiết kế ban đầu sau này sẽ trở thành chiếc Voodoo được khởi sự ngay sau khi kết thúc Thế Chiến II nhằm đáp ứng một gói thầu cạnh tranh của Không lực Lục quân Hoa Kỳ về chương trình Máy bay Tiêm kích Xâm nhập năm 1946 để làm một máy bay tiêm kích tầm xa tính năng cao để hộ tống máy bay ném bom, có chức năng giống như chiếc P-51 Mustang đang thực hiện lúc đó. Sau khi thắng được hợp đồng (AC-14582), McDonnell đã chế tạo hai chiếc nguyên mẫu đặt tên là XF-88. Chiếc nguyên mẫu đầu tiên (số hiệu 46-6525), trang bị hai động cơ phản lực Westinghouse XJ-34-WE-13, công suất 3000 mã lực (2240 kW) cất cánh lần đầu tiên tại Muroc vào ngày 20 tháng 10 năm 1948. Những thử nghiệm sơ khởi cho thấy chiếc máy bay đạt được tốc độ tối đa đáng thất vọng chỉ đặt được 1.030 km/h (640 mph) ở mặt nước biển. Sau khi được gắn thêm bộ đốt sau động cơ do McDonnell thiết kế, lực đẩy được gia tăng thêm 30% giúp cải thiện tính năng bay về tốc độ tối đa, tốc độ lên cao và rút ngắn quãng đường băng cất cánh.
Cho dù chiếc XF-88 đã chiến thắng trong cuộc bay loại cạnh tranh cùng các kiểu Lockheed XF-90 và North American XF-93, Không quân Hoa Kỳ (thành lập năm 1947) đã đánh giá lại nhu cầu về một kiểu máy bay hộ tống ném bom và kết thúc chương trình Máy bay Tiêm kích Xâm nhập năm 1950. Tuy nhiên, việc phân tích những phi vụ trong Chiến tranh Triều Tiên, cho thấy những máy bay ném bom chiến lược hiện đại của Không quân Hoa Kỳ vẫn tỏ ra mong manh trước những máy bay tiêm kích đánh chặn. Năm 1951, Không quân Hoa Kỳ công bố một yêu cầu mới về một kiểu máy bay tiêm kích hộ tống cho mọi hãng sản xuất máy bay Mỹ chủ yếu. Thiết kế của McDonnell là một phiên bản XF-88 to và mạnh hơn, và chiến thắng gói thầu vào tháng 5 năm 1951. Chiếc F-88 được đặt lại tên là F-101 Voodoo vào tháng 11 năm 1951.
Chiếc máy bay có kích thước to hơn đáng kể, chứa một lượng nhiên liệu nhiều hơn gấp ba lần so với trước, và được thiết kế chung quanh kiểu động cơ J57 turbo phản lực to hơn, mạnh mẽ hơn. Kích thước to hơn của những động cơ J57 đòi hỏi phải cải tạo khoang động cơ cũng như các cửa hút gió để cho có thể hút một lượng khí nhiều hơn vào động cơ. Cửa hút gió mới cũng được thiết kế để có hiệu quả hơn ở tốc độ Mach cao. Thiết kế được chấp nhận, và một đơn đặt hàng 39 chiếc F-101A được đưa ra vào tháng 5 năm 1953 mà không có chiếc nguyên mẫu nào được chế tạo. nhỏ|Chiếc F-101A số hiệu 53-2418 tại [[Bảo tàng Hàng không Pueblo Weisbrod, Pueblo, Colorado.]] Chiếc F-101A số hiệu 53-2418 là máy bay đầu tiên thuộc phiên bản A được giao đến Căn cứ Không quân Edwards vào tháng 8 năm 1954. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào ngày 29 tháng 9 năm 1954, do phi công thử nghiệm của McDonnell là Robert C. Little điều khiển. Kết quả bay thử nghiệm đạt được tốc độ Mach 0,9 ở độ cao 35.000 feet, và tốc độ tối đa đạt được là Mach 1,4. Chiếc máy bay này hiện được trưng bày tại Bảo tàng Hàng không Pueblo Weisbrod, sân bay Pueblo Memorial, Pueblo, Colorado.
Việc chấm dứt chiến sự tại Triều Tiên và việc phát triển kiểu máy bay ném bom chiến lược B-52 đã phủ định nhu cầu cần có một kiểu máy bay tiêm kích hộ tống và Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược đã rút lui khỏi chương trình. Chiếc máy bay được sử dụng chủ yếu như là máy bay tiêm kích đánh chặn hai chỗ ngồi dùng trong phòng không (F-101B), máy bay tiêm kích-ném bom nguyên tử (F-101A/F-101C) và nền tảng trinh sát hình ảnh (RF-101A/RF-101C) được sử dụng tại Cuba và Việt Nam.
Chiếc Voodoo được thay thế trong vai trò máy bay tiêm kích-ném bom bởi chiếc McDonnell Douglas F-4 Phantom II. Trong khi chiếc Voodoo có được một thành công vừa phải, nó có vai trò quan trọng hơn như là một bước tiến hoá đến kiểu Phantom II, một trong những thiết kế máy bay tiêm kích Phương Tây thành công nhất trong những năm 1960. Chiếc Phantom II đã giữ lại thiết kế hai động cơ, đội bay hai người cho những nhiệm vụ đánh chặn, và một thiết kế đuôi bên trên và đàng sau những ống xả động cơ phản lực. Cả hai chiếc máy bay đều chịu ảnh hưởng của thiết kế chiếc F-3 Demon thuộc cùng công ty, một máy bay tiêm kích đánh chặn hoạt động trên tàu sân bay phục vụ trong những năm 1950 và đầu những năm 1960.
Lịch sử hoạt động
F-101A / RF-101G
nhỏ|Chiếc F-101A Voodoo Dù cho không còn sự quan tâm của Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược, chiếc máy bay vẫn thu hút được sự quan tâm của Bộ chỉ huy Không quân Chiến thuật, và chiếc F-101 được cấu hình lại thành một kiểu máy bay tiêm kích-ném bom, được dự định để mang một vũ khí nguyên tử duy nhất để sử dụng chống lại các mục tiêu trên chiến trường như các sân bay. Dưới sự hỗ trợ của Bộ chỉ huy Không quân Chiến thuật, việc thử nghiệm được tái tục bắt đầu vào đầu năm 1955. Một số vấn đề được nhận ra trong khi phát triển, và nhiều trong số đó được khắc phục. Chiếc máy bay có một xu hướng nguy hiểm sẽ bị ngóc mũi nặng ở góc tấn lớn mà chưa bao giờ được giải quyết triệt để. Có khoảng 2.300 cải tiến đã được đưa ra trong khoảng thời gian giữa những năm 1955 - 1956 trước khi việc sản xuất hằng loạt được bắt đầu vào tháng 11 năm 1956.
Chiếc F-101A đầu tiên được giao vào tháng 5 năm 1957 đến Phi đoàn Tiêm kích Chiến lược 27, thay thế những chiếc F-84F Thunderstreak. Chiếc F-101A, được trang bị hai động cơ turbo phản lực P&W J57-P-13 cho phép có gia tốc và tốc độ lên cao tốt, dễ dàng vượt tốc độ âm thanh khi bay ngang, và đạt đến tốc độ tối đa Mach 2,25. Trữ lượng nhiên liệu bên trong của chiếc F-101 lớn nên cho phép có tầm bay xa đến khoảng 3.000 dặm không nghỉ. Chiếc máy bay được trang bị một radar kiểm soát hỏa lực MA-7 sử dụng cho cả không-đối-không và không-đối-đất, được bổ sung bởi một Hệ thống ném bom tầm thấp (LABS) MA-2 để phóng vũ khí nguyên tử, và được thiết kế để mang một bom nguyên tử Mk 28. Trong khi trên lý thuyết nó có thể mang bom thông thường hay rocket, chiếc Voodoo chưa bao giờ sử dụng vũ khí này trong hoạt động. Nó được trang bị bốn khẩu pháo M39 20 mm, và một khẩu thường được tháo bỏ khi phục vụ để lấy chỗ cho một bộ cảm biến tín hiệu dẫn đường TACAN.
Chiếc F-101 đã đạt được một số kỷ lục về tốc độ, bao gồm: một chiếc JF-101A đã lập kỷ lục tốc độ thế giới 1.942 km/h (1.207 dặm mỗi giờ) vào ngày 12 tháng 12 năm 1957, phá kỷ lục cũ của Fairey Delta 2 trước đây, một chiếc RF-101A bay chuyến bay khứ hồi Los Angeles-New York-Los Angeles trong vòng 6 giờ 46 phút, và một chiếc F-101A bay từ Carswell, Texas đến Bermuda không tiếp thêm nhiên liệu.
Có tổng cộng 77 chiếc F-101A được chế tạo. Chúng được dần dần rút khỏi phục vụ bắt đầu từ năm 1966. Hai mươi chín chiếc còn lại được cải biến thành tiêu chuẩn RF-101G, với mũi máy bay được cải tiến chứa các máy ảnh trinh sát thay chỗ cho các khẩu súng máy và radar. Những chiếc này phục vụ cho Không lực Vệ binh Quốc gia cho đến năm 1972.
RF-101A
Vào tháng 10 năm 1953, Không quân Hoa Kỳ yêu cầu hai chiếc F-101A được chế tạo như là chiếc nguyên mẫu cho kiểu máy bay trinh sát chiến thuật YRF-101A. Những chiếc này được tiếp nối bởi 35 chiếc RF-101A sản xuất hằng loạt. Chiếc RF-101A vẫn chia sẻ cùng kiểu khung máy bay của chiếc F-101A, bao gồm giới hạn gia tốc G 6,33 (62 m/s²), nhưng thay thế radar và pháo bằng sáu máy ảnh trong mũi máy bay được thiết kế lại. Nó thật bất thường khi được trang bị cả hai kiểu tiếp nhiên liệu trên không kiểu "ống bay" và kiểu "vòi và phểu". Nó được đưa vào hoạt động từ tháng 5 năm 1957, thay thế chiếc RB-57 Canberra. Những chiếc RF-101A của Không quân Hoa Kỳ thuộc Phi đoàn Trinh sát Chiến thuật 363 đã thực hiện những phi vụ trinh sát bên trên lãnh thổ Cuba trong Sự kiện tên lửa Cuba vào tháng 10 năm 1962.
Đặc điểm kỹ thuật (P-40E)
Đặc tính chung
- Đội bay: 02 người
- Chiều dài: 20,55 m (67 ft 5 in)
- Sải cánh: 12,09 m (39 ft 8 in)
- Chiều cao: 5,49 m (18 ft 0 in)
- Diện tích bề mặt cánh: 34,20 m² (368 ft²)
- Kiểu cánh: NACA 65A007 mod root, 65A006 mod tip
- Lực nâng của cánh: 607 kg/m² (124 lb/ft²)
- Trọng lượng không tải: 12.925 kg (28.495 lb)
- Trọng lượng có tải: 20.715 kg (45.665 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 23.770 kg (52.400 lb)
- Trữ lượng nhiên liệu bên trong: 7.771 L (2.053 US gal); 11.178 L (2.953 US gal) với hai thùng nhiên liệu phụ bên ngoài.
- Động cơ: 2 x động cơ Pratt & Whitney J57-P-55 turbo phản lực có đốt sau, lực đẩy 11.990 lbf (53,3 kN), lực đẩy có đốt sau 16.900 lbf (75,2 kN) mỗi động cơ.
Đặc tính bay
- Tốc độ lớn nhất: 1.825 km/h (Mach 1,72, 1.134 mph) ở 10.500 m (35.000 ft)
- Tầm bay tối đa: 2.450 km (1.320 nm, 1.520 mi)
- Trần bay: 17.800 m (58.400 ft)
- Tốc độ lên cao: 250 m/s (49.200 ft/min)
- Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,74
Vũ khí
- 4 × tên lửa AIM-4 Falcon
- 2 × tên lửa nguyên tử AIR-2 Genie
Thiết bị điện tử
- Hệ thống kiểm soát hỏa lực Hughes MG-13