✨Matsudaira Tarō
thumb|Người thứ hai từ bên phải là Matsudaira Tarō. Những người khác gồm [[Ōzeki Masuhiro, Katsu Kaishū, Inaba Masami, Ishikawa Shigetaka, Robert B. Van Valkenburgh (Công sứ Mỹ), Ezure Akinori (Ngoại quốc phụng hành).]] là gia thần Mạc phủ Tokugawa, Tổng Tư lệnh Quân đội dưới quyền Bộ trưởng Lục quân Katsu Kaishū, trong thời kỳ Bakumatsu, và sau đó trở thành Phó Tổng tài phụ trách Nội vụ và Đối ngoại của Cộng hòa Ezo trong chiến tranh Boshin. Còn có tên gọi khác là . Sau khi mất được truy phong .
Tiểu sử
poly 0 350 18 341 48 315 47 304 36 305 22 283 22 246 36 220 65 210 69 194 62 171 66 136 94 132 109 152 104 201 140 219 150 231 156 285 145 369 118 391 68 391 54 433 49 462 10 457 Hosoya Yasutarō poly 224 555 152 405 172 353 186 294 184 237 216 224 219 202 211 165 229 146 250 146 267 156 271 168 284 171 272 182 273 216 304 224 323 289 323 349 333 388 339 431 326 450 339 529 306 552 Đại úy Jules Brunet poly 324 560 355 524 348 388 337 375 334 343 342 299 369 265 393 230 410 224 404 202 404 185 392 185 399 175 399 163 435 150 454 159 463 169 463 205 468 224 498 241 509 257 517 308 519 330 496 394 473 558 Tổng tư lệnh Matsudaira Tarō poly 548 372 531 327 528 285 529 244 545 231 575 212 558 192 558 175 556 175 554 147 560 138 577 131 594 131 609 159 605 165 610 187 610 212 646 227 679 261 708 299 670 363 666 383 657 387 664 396 671 449 716 503 714 517 658 453 654 534 528 535 Tajima Kintarō poly 162 365 148 235 109 184 117 144 135 106 164 92 175 78 169 49 169 31 178 24 195 24 208 35 215 41 215 47 207 55 208 72 217 82 225 91 253 104 263 141 193 365 Đại úy André Cazeneuve poly 265 227 267 150 272 139 297 129 293 106 287 91 294 66 305 60 321 60 333 71 338 78 344 81 344 89 340 97 336 103 334 122 360 139 365 139 376 149 391 179 398 226 358 245 371 305 315 362 Trung sĩ Jean Marlin poly 380 222 386 171 404 151 405 134 399 116 403 114 396 99 410 86 444 97 451 104 451 109 442 115 444 133 441 142 460 170 Fukushima Tokinosuke poly 457 166 461 121 475 104 503 89 509 82 499 72 496 48 489 21 523 17 539 37 541 48 534 71 534 78 547 91 565 99 580 104 627 185 623 210 545 307 577 481 469 493 Trung sĩ Arthur Fortant rect 0 0 713 561 Sử dụng nút để phóng to hoặc con trỏ để điều tra
desc none
Khi chiến tranh Boshin bùng nổ vào tháng 1 năm 1868, thì sang tháng 2, ông được bổ nhiệm làm cầm đầu bộ binh, dưới sự chỉ huy của Katsu Kaishū chịu trách nhiệm ngăn ngừa quân cựu Mạc phủ chống đối quân đội triều đình. Matsudaira, vốn là người theo phe chủ chiến, quyết định đi theo nhóm Ōtori Keisuke và Enomoto Takeaki tổ chức kháng cự với quân tân chính phủ đến cùng. Ông bèn trốn khỏi thành Edo và gia nhập với Ōtori ở Imaichi, cung cấp ngân quỹ dành cho quân sự. Sau đó, chịu thua trong trận Aizu, ông lui về vùng Ezo cùng với Enomoto và tàn quân cựu Mạc phủ.
Enomoto tổ chức bỏ phiếu trong "cuộc bầu cử công khai" (tuyển cử) diễn ra sau khi vùng Ezo bị chiếm đóng, ông được bổ nhiệm làm phục vụ chính quyền Hakodate. Matsudaira chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nội vụ và ngoại giao, và đóng vai trò là trợ thủ đắc lực của Enomoto. "Tài năng kiểu Tây" của Enomoto được cho là "Hồn Nhật Bản" của Matsudaira, khiến ông trở nên nổi tiếng trong hàng ngũ quan chức cựu Mạc phủ. Đến khi quân tân chính phủ tung ra đợt tổng tấn công vào tháng 5 năm 1869, dù đã cố sức chiến đấu với quân địch thế nhưng do sức cùng lực kiệt buộc Matsudaira phải ra đầu hàng quan quân vào ngày 18 tháng 5 năm 1869.
Sau khi mở cửa thành Goryokaku vào ngày 7 tháng 6, ông bị áp giải cùng Enomoto và những người khác đến Tokyo, giống như Enomoto và Ōtori, họ đều bị giam tại Sở Thẩm vấn Tatsunoguchi ở Tokyo. Năm 1872, Matsudaira được chính phủ Minh Trị phóng thích và điều động tới làm việc tại Hakodate phụ trách khai khẩn đất đai ở Hokkaido với chức danh , nhưng ông chỉ làm việc trong một thời gian ngắn rồi xin từ chức vào năm sau.
Về sau, ông làm quyền tham tán tỉnh Mizuma rồi được Bộ Ngoại giao cử sang công tác tại Vladivostok nước Nga nhưng sớm nghỉ hưu. Không còn lo chuyện công vụ nữa, Matsudaira dư dả thời gian bèn đứng ra tự điều hành một doanh nghiệp buôn bán địa phương và một doanh nghiệp dệt may ở Trung Quốc, nhưng thiếu tài năng của một thương gia nên gặp thất bại, hết sạch vốn liếng đến nỗi phải sống lưu vong trong nhiều ngày liền. Vào những năm cuối đời, vợ con ông được cho là sinh sống dưới sự bảo trợ của Enomoto cùng với người em trai Korokurō.
Năm 1909, ông qua đời vì bệnh tại một khu nghỉ dưỡng suối nước nóng ở quận Kamo xứ Izu. Ngày mất là ngày 24 tháng 5 và cũng có thuyết nói là ngày 25 hoặc 26, hưởng thọ 71 tuổi.