✨Măng cụt
Măng cụt (danh pháp hai phần: Garcinia mangostana) hay còn được gọi là quả tỏi ngọt Nó mọc chủ yếu ở Đông Nam Á, Tây Nam Ấn Độ và các khu vực nhiệt đới khác như Colombia, Puerto Rico và Florida, nơi cây đã được giới thiệu. Cây cao từ 6 đến 25 m (19,7 đến 82,0 ft). Hạt có hình quả hạnh và kích thước nhỏ.
Tỏi ngọt thuộc cùng một chi với các loại trái cây khác, ít được biết đến hơn, chẳng hạn như măng cụt nút (G. prainiana) hoặc charichuelo (G. madruno).
Lịch sử
Măng cụt là một loại cây bản địa ở Đông Nam Á. Được đánh giá cao nhờ độ ngon ngọt, kết cấu tinh tế và hương vị chua và ngọt thanh, măng cụt đã được trồng ở bán đảo Mã Lai, Borneo, Sumatra, bán đảo Đông Dương và Philippines từ thời cổ đại. Theo ghi chép của Trung Quốc vào thế kỷ 15 là Doanh nhai thắng lãm, măng cụt được gọi là mang-chi-shih (có nguồn gốc từ tiếng Mã Lai manggis), một loài thực vật bản địa ở Đông Nam Á, thịt trắng với vị chua ngọt rất ngon.
thumb|left|Hoa, quả măng cụt và con khỉ Singapore của [[Marianne North, trước năm 1890]]
Mô tả về măng cụt được Linnaeus đưa vào Species Plantarum vào năm 1753. Măng cụt được đưa vào trồng trong nhà kính ở Anh vào năm 1855. Sau đó, việc trồng nó được đưa sang Tây bán cầu, nơi nó được trồng ở quần đảo Tây Ấn, đặc biệt là Jamaica. Sau đó, nó được trồng ở nhiều vùng Trung Mỹ như Guatemala, Honduras, Panama và Ecuador. Cây măng cụt nói chung không phát triển tốt khi trồng ngoài vùng nhiệt đới.
Ở Đông Nam Á, măng cụt thường được gọi là "Nữ hoàng của các loại trái cây" và thường được ghép với sầu riêng, "Vua của các loại trái cây". Trong thực liệu Trung Hoa, măng cụt được coi là "có tính mát", là đối trọng tốt với sầu riêng "có tính nhiệt". nó không được chứng minh bởi bất kỳ tài liệu lịch sử đã biết nào. Kể từ năm 2006, các đơn đặt hàng măng cụt trồng ở Puerto Rico với số lượng nhỏ đã được bán cho các cửa hàng thực phẩm đặc sản của Mỹ và các nhà hàng dành cho người sành ăn phục vụ các phần thịt như một món tráng miệng ngon. Nhân giống sinh dưỡng khó hơn, ươm mầm từ hạt thì cây con cứng cáp hơn và ra quả sớm hơn cây nhân giống sinh dưỡng. Việc cấy chuyển diễn ra vào mùa mưa vì cây non có khả năng bị ảnh hưởng xấu do hạn hán. với độ ẩm tương đối trên 80%. Cây măng cụt cần lượng mưa phân bố tốt trong năm (<40 mm/tháng) và mùa khô 3–5 tuần. Các mục tiêu nhân giống có thể nâng cao sản lượng măng cụt bao gồm:
Bệnh cháy lá do Pestalotiopsis (Pestalotiopsis flagisettula (chỉ được xác định ở Thái Lan)) là một trong những bệnh lây nhiễm đặc biệt là trên lá non.
Một khi trái măng cụt đang phát triển ngừng nở ra, quá trình tổng hợp chất diệp lục sẽ chậm lại khi giai đoạn màu tiếp theo bắt đầu. Ban đầu có vệt đỏ, sắc tố ngoài chuyển từ xanh sang đỏ sang tím sẫm báo hiệu giai đoạn chín cuối cùng. Toàn bộ quá trình này diễn ra trong khoảng thời gian mười ngày khi chất lượng ăn được của trái cây đạt đến đỉnh điểm. Qua những ngày sau khi hái khỏi cây, lớp vỏ cứng lại ở một mức độ tùy thuộc vào việc xử lý sau thu hoạch và điều kiện bảo quản xung quanh, đặc biệt là mức độ ẩm tương đối. Nếu độ ẩm môi trường xung quanh cao, sự đông cứng của vỏ quả có thể mất một tuần hoặc lâu hơn khi chất lượng thịt đạt đỉnh. Tuy nhiên, sau vài ngày bảo quản, đặc biệt nếu không được làm lạnh, phần thịt bên trong quả có thể bị hư hỏng mà không có bất kỳ dấu hiệu bên ngoài rõ ràng nào. Do đó, việc sử dụng độ cứng của vỏ làm chỉ báo độ tươi trong hai tuần đầu tiên sau khi thu hoạch là không đáng tin cậy vì vỏ không tiết lộ chính xác tình trạng bên trong của thịt. Nếu vỏ quả mềm và có năng suất như khi chín và tươi từ cây thì quả thường tốt. Các thành phần dễ bay hơi chính có hương caramel, cỏ và bơ như một phần của hương thơm măng cụt là hexyl axetat, hexenol và α-copaene.
Hình ảnh
Thành phần hóa học
nhỏ|Măng cụt được trồng nhiều tại [[Việt Nam]] Áo hạt măng cụt không thấy được khảo cứu. Phần lớn các công tác đều hướng về vỏ quả. Thành phần chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là mangostin, a-mangostin, b-mangostin, g-mangostin, các isomangostin, normangostin, bên cạnh trioxyxanthon, pyranoxanthon, dihydroxy methyl butenyl xanthon, trihydroxy methyl butenyl xanthon, pyrano xanthenon. Các garcinon A, B, C, D, E, mangostinon, garcimangoson A, B, C, gartanin, egonol, epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, benzophenon glucosid tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra. Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein (7,8 %), tanin (11,2 %), đã được xác định là các trihydroxy methoxy methyl butenyl xanthon, ethyl methyl maleimid glucopyranosid, cùng các triterpenoid như cycloartenol, friedlin, b-sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid, cyclolanostendiol, hydroxy cyclolanostenon. Từ ruột thân cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra. Còn tử y (?) thì chứa đựng mangostin, các calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy dimethyl allyl xanthon.
Các hợp chất polysaccharide và xanthone được tìm thấy trong quả, lá và lõi gỗ của măng cụt.
Công dụng
Ẩm thực
Y học cổ truyền
Các bộ phận khác nhau đã được sử dụng trong y học cổ truyền từ lâu, hầu hết là ở Đông Nam Á; nó có thể đã được sử dụng để điều trị nhiễm trùng da, vết thương, kiết lỵ, nhiễm trùng đường tiết niệu và các bệnh về đường tiêu hóa, mặc dù không có bằng chứng lâm sàng chất lượng cao cho bất kỳ tác dụng nào trong số này.
Trái cây sấy khô được chuyển đến Singapore để chế biến làm thuốc chữa các bệnh như kiết lỵ, bệnh da liễu và các bệnh nhỏ khác ở một số quốc gia trên khắp châu Á.
Tác dụng dược lý
Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón. Cách thức dùng tương đối dễ: bỏ vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml), có thể thêm hạt mùi (5g), hạt thìa lìa (5g), rồi đun sôi, sắc kỹ cho cạn chừng một nửa, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 120 ml. Nếu là người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc phiện.
Những công tác khảo cứu mới cho biết những tính chất của vỏ trái: nhờ chất epicatechin, nó chống oxi hoá; nhờ những flavonoid, nó ức chế hoạt động sản xuất acid của trùng Streptococcus mutans GS-5. Bên phân garcinon E thì có tính chất độc hại cho các tế bào gan, phổi, dạ dày.
Trong số các xanthon, hoạt chất được khảo cứu sâu rộng nhất là những mangostin. Chúng có tác dụng mạnh lên các vi khuẩn Staphylococcus aureus ở nồng độ 7,8 µg/ml, lên các nấm Fusarium oxysporum vasinfectum, Alternaria tenuis, Dreschlera oryzae, Trichophyton mentagrophytes, Microsporum gypseum, Epidermophyton floccosum ở nồng độ 1 µg/ml, Mycobacterium tuberculosis ở nồng độ 6,25 µg/mL. Đem thử trên heo và chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ tế bào bám dính miễn dịch. Đặc biệt a-mangostin ức chế Bacillus subtilis ở nồng độ 3,13 µg/ml, Staphylococcus aureus NIHJ 209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57 µg/ml, tác dụng tăng cường nếu cho thêm vào vannomycin. g-mangostin thì chống sự oxy hóa lipid, ức chế sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do các tế bào đại thực gây ra. Cả hai a- và g-mangostin đều có tính chất chống dị ứng; thuốc viên rất hiệu nghiệm trên các bệnh nhân bị chứng sổ mũi mùa. Cả hai ức chế sự co của động mạch chủ trên ngực thỏ đã bị histamin và serotonin tác động. Nói chung, cả hai đều là những chất đối kháng thiên nhiên tác dụng của histamin, tức là những tác nhân điều trị đác lực những bệnh biến dị ứng. Hai chất nấy, chiết xuất từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử gốc, kháng oxy hóa. Một phần chiết măng cụt gồm có mangostin và g-mangostin ức chế HIV-1 protease (IC50=5,12 và 4,81µM).
Đứng về mặt ứng dụng, măng cụt được dùng trong thuốc tẩy, thuốc đánh răng, mỹ phẩm có tính chất kháng vi sinh vật. Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin hay ergonol ức chế Helicobacter pylori đã được dùng để chữa ung thư, loét hay viêm dạ dày. a-mangostin có công hiệu trên Helicobacter pylori ở nồng độ 1,56 µg/ml (38). a- và g-mangostin ức chế glucosyl transferase phát xuất từ trùng sâu răng Streptococcus sobrinus và collagenase do vi khuẩn viêm lợi Porphyromonas gingivalis gây chảy mũi nên được dùng trong thuốc đánh răng, có khả năng ngừa chặn sâu răng và mảng răng. Mangosten được trộn với nhiều hóa chất khác như cetyl alcool, cetyl phosphat, dimethicon, eicosen, disodium, magnesium stearat, dipropylen glycol, triethanolamin,... để làm một loại thuốc bảo vệ chống ánh nắng mặt trời. Nhờ tính chất ức chế hoạt động phosphodiesterase, ở nồng độ 50 µg/ml trong một dung dịch 5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để làm thuốc kích thích tiêu mỡ. Sau cùng, cũng nên biết để trái măng cụt tránh bị rám nâu khi tích trữ trong tủ lạnh, nó cần phải được lắc lay một phút trong một dung dịch 0,25% calcim chlorid + 0,5% citric acid.
Thuốc nhuộm tự nhiên
Chiết xuất từ vỏ măng cụt được sử dụng ở Indonesia như một nguồn thuốc nhuộm tự nhiên để tạo màu dệt; để có được màu nâu, nâu sẫm, tím đến đỏ, đặc biệt được áp dụng trong vải dệt tenun ikat và batik truyền thống.
Công dụng khác
Cành măng cụt đã được sử dụng làm que nhai ở Ghana và gỗ đã được sử dụng để làm giáo và đồ gỗ ở Thái Lan. Vỏ của quả măng cụt cũng được sử dụng để thuộc da ở Trung Quốc.
Tiếp thị
Măng cụt tươi chỉ được bán trên thị trường trong thời gian ngắn từ sáu đến mười tuần do tính chất theo mùa của nó. Ngoài ra, không có hệ thống đánh giá hoặc phân loại chất lượng sản phẩm tiêu chuẩn nên làm cho việc giao thương quốc tế của loại trái cây này trở nên khó khăn.