✨Lê Đại Thanh

Lê Đại Thanh

Chân dung nhà thơ Lê Đại Thanh. Lê Đại Thanh (1907-1996) là nhà thơ, nhà viết kịch thuộc thế hệ những nghệ sĩ đầu tiên của nghệ thuật sân khấu Việt Nam hiện đại, cùng thời với Thế Lữ và Vi Huyền Đắc. Ông đồng thời là hội viên sáng lập của Hội nhà văn Việt Nam (1957) cũng như các tờ báo Văn nghệ và báo Cứu quốc. Các con và cháu ngoại của ông sau này đều trở thành những nghệ sĩ tên tuổi như họa sĩ Lê Đại Chúc, Nghệ sĩ ưu tú Lê Chức, Nghệ sĩ ưu tú Lê Mai, Nghệ sĩ Nhân dân Lê Khanh, Nghệ sĩ ưu tú Lê Vân và Nghệ sĩ ưu tú Lê Vi.

Tiểu sử và sự nghiệp

Những năm tuổi trẻ

Lê Đại Thanh sinh năm 1907 tại Hải Phòng trong một gia đình trí thức. Ông học bậc tiểu học tại trưòng Bonnal, Hải Phòng (nay là Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng). Sau khi học xong tiểu học năm 1922, ông lên học trưòng Bưởi, Hà Nội.

Tốt nghiệp bằng Thành Chung, Lê Đại Thanh theo học ngành sư phạm.

Năm 1927, ra trường, ông được bổ nhiệm về dạy học tại Nam Định (1927 - 1932). Tại đây có hai học trò của ông sau này đã trở thành những nhà văn nổi tiếng là Nam Cao và Nguyên Hồng. Cũng tại Nam Định ông làm quen và kết bạn với một số chiến sĩ cách mạng và những thanh niên có tư tưởng yêu nước như Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Công Mỹ, Bùi Đình Đổng nên bị chuyển công tác lên Hoà Bình (1933).

Năm sau lại bị điều đi xa hơn, tận Nước Hai, Cao Bằng. Học sinh của ông ở Cao Bằng sau này nhiều người trở thành tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam như Bằng Giang, Nam Long.

Năm 1935, Lê Đại Thanh được chuyển về công tác gần quê nhà tại trường Hàng Kênh, thuộc huyện Hải An, tỉnh Kiến An (trước đây vốn tách ra từ tỉnh Hải Phòng thành tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng). Tới năm 1941 ông quay trở lại mái trường cũ Bonnal với cương vị là một thầy giáo và dạy học ở đây cho đến năm 1945.

Hoạt động cách mạng

Trong thời gian dạy học ở Nam Định, Lê Đại Thanh quen và kết bạn với một số chiến sĩ cách mạng và những thanh niên có tư tưởng yêu nước nên bị chính quyền bảo hộ chuyển công tác lên Hoà Bình rồi Cao Bằng. Học sinh của ông ở Cao Bằng sau này nhiều người trở thành tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam như Bằng Giang, Nam Long...

Năm 1935 ông được chuyển về Kiến An, Hải Phòng dạy học. Cũng trong giai đoạn này ông đã bí mật liên hệ với cách mạng và được cán bộ cách mạng phân công hoạt động trong các phong trào công khai như Hội truyền bá Quốc ngữ và phong trào thể dục thể thao Đuycuaroa. Ông còn bí mật quyên tiền mua súng cho cách mạng.

Tháng 5 năm 1945, Lê Đại Thanh bị hiến binh Nhật bắt khi đang diễn thuyết tại hội quán AFA.

Tham gia Chính quyền cách mạng Thành phố Hải phòng

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng cử Lê Đại Thanh làm Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời phụ trách tuyên truyền song ông chỉ nhận chức Uỷ viên tuyên truyền phù hợp với khả năng của mình. Lãnh đạo Ủy ban cách mạng Hải phòng đều là những trí thức như ông Vũ Quốc Uy, bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên.

Dựa vào thế lực quân Tưởng Giới Thạch, phe Việt Nam Quốc dân đảng bắt ông giam ba tuần và định thủ tiêu. Tuy nhiên do phong trào vận đông và đấu tranh quyết liệt của quần chúng dưới sự phát động của Bí thư thành ủy Hải Phòng lúc đó nên ông được trả tự do.

Tháng 8 năm 1946 Thành ủy Hải phòng thành lập trường Huấn luyện cán bộ Tô Hiệu, Hiệu trưởng danh dự là ông Hoàng Hữu Nhân. Ông và Hoàng Mạnh Thu được giao phụ trách nhà trường, trực tiếp phụ trách huấn luyện. Trường Huấn luyện Thanh niên Tô Hiệu dành riêng cho thanh niên ưu tú của các Tỉnh miền Duyên Hải Bắc Bộ: Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương, Quảng Yên, Hòn Gai, Móng Cái. Các học viên được học tập về đường lối cách mạng, được huấn luyện 5 bước công tác cách mạng và huấn luyện quân sự. Khóa huấn luyện đầu tiên cho trên 100 người được vinh dự gặp mặt Bác Hồ vào ngày 21/10/1946 khi Người từ Pháp trở về .

Năm 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Lê Đại Thanh tham gia hàng ngũ các chiến sĩ trung đoàn 42 bảo vệ Hải Phòng. Sau khi ra vùng tự do ông được cử làm Phó Giám đốc Ban Tuyên truyền liên khu II.

Năm 1948, ông tham gia Đại hội thành lập Hội văn học nghệ thuật Việt Nam và được cử vào Ban Thư ký đại hội. Tiếp đó, Lê Đại Thanh công tác tại Hội Văn hóa cứu quốc rồi tạp chí Gió biển, báo Quân Bạch Đằng thuộc Bộ Tư lệnh liên khu III, báo Cứu quốc thuộc liên khu I. Có thời gian ông nhập ngũ tiểu đoàn 142.

Năm 1954, hòa bình lập lại, Lê Đại Thanh được phân công công tác ở báo Văn Nghệ.

Nhân văn Giai phẩm

Sự kiện Nhân Văn-Giai Phẩm xảy ra vào năm 1957 đã trở thành cú sốc lớn đối với cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của Lê Đại Thanh cũng như nhiều nghệ sĩ tên tuổi đương thời trong đó có Văn Cao.

Ông bị cấp trên kiểm điểm và buộc thôi công tác tại Đoàn kịch Trung ương. Cũng vì lý do này mà các tác phẩm của Lê Đại Thanh không được phép xuất bản trong suốt một thời gian dài. Sự việc sau này đã được làm rõ qua lời nói của nhà thơ Tố Hữu với Giám đốc Sở Văn hóa Hải phòng nhạc sĩ Trần Hoàn: Trường hợp của ông Lê Đại Thanh nếu như có một kết luận nào đó để hiểu là kỷ luật thì đó là kết luận sai lầm.

Tuy nhiên, kết luận kỷ luật sai lầm của cấp trên (mà nhà thơ Tố Hữu đã nói) không chỉ cản trở sự nghiệp văn nghệ của Lê Đại Thanh mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến cả gia đình ông. Con gái Lê Mai của ông khi đó đang là diễn viên Đoàn kịch Trung ương cũng buộc phải thôi việc. Các con ông phải đổi tên. con ông đều bỏ đi chữ Đại ở giữa. Lê Đại Châu đổi thành Lê Minh Châu. Lê Đại Chức thì bỏ hẳn chữ Đại chỉ còn Lê Chức. Lê Đại Chúc cũng chỉ là Lê Chúc.

Chỉ gần tới khi qua đời (1996) ông mới được minh oan.

Sự nghiệp văn nghệ

Kịch và thơ ca là hai mảng chính trong cả cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Lê Đại Thanh. Khi còn là giáo viên, ông vừa viết báo, làm thơ, viết kịch và diễn kịch. Thành công đầu tiên của ông trong sự nghiệp văn nghệ là giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn cho vở hài kịch Hai người trọ học (1936). Cùng được nhận giải của Tự Lực Văn Đoàn trong đợt này còn có Kim tiền của Vi Huyền Đắc và Bỉ vỏ của Nguyên Hồng.

Lê Đại Thanh hoạt động trên sân khấu kịch nói trong nhiều vai trò như diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch. Ông tham gia thành lập nhiều đoàn kịch như đoàn kịch mang tên Lê Đại Thanh - Lan Sơn, Gió biển. Trước Cách mạng tháng Tám, Lê Đại Thanh tham gia đóng kịch trong ban kịch của Thế Lữ. Ông thủ vai Trần Thiết Chung nhân vật chính trong vở Kim Tiền của Vi Huyền Đắc, diễn lần đầu tại Nhà hát lớn Hải Phòng năm 1938. Năm 1946, Lê Đại Thanh được cử làm Hội trưởng Hội Văn học Hải Phòng. Năm 1948, ông tham gia Đại hội thành lập Hội văn học nghệ thuật Việt Nam và được cử vào Ban Thư ký đại hội. Trong thời gian này Lê Đại Thanh sáng tác hai vở kịch nói Những cái chết anh hùngNgười mẹ tiễn con ra trận.

Thơ Lê Đại Thanh sáng tác không quá nhiều nhưng gần như mỗi một bài thơ của ông đều để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi những triết lý sâu xa mà tác giả muốn gửi tới độc giả qua lời thơ mà cũng như một lời trao gửi nhỏ nhẹ với thế giới nhân sinh. Những bài thơ như Di chúc, Thi sĩ và thơ, Sư tử và mặt trời, Tâm sự cùng nhân loại, Thời gian, Tôi yêu chuyện cổ tích nước tôi, Đám cưới chuột, Ngây thơ có thể coi như điển hình cho phong cách thơ của Lê Đại Thanh. Thơ của Lê Đại Thanh chủ yếu lưu truyền trong bạn đọc và bạn bè trong giới văn nghệ. Bởi thế nên khi nhắc đến thơ ông, người ta không thể bỏ qua câu chuyện có một người thanh niên đến gặp nhà thơ Tế Hanh để hỏi về mấy câu thơ trong bài thơ Di chúc của Lê Đại Thanh. Người thanh niên không biết đó là thơ của Lê Đại Thanh và muốn hỏi nhà thơ Tế Hanh đó có phải là thơ của thi hào người Ấn Độ Tagore hay không. Tế Hanh sau khi nghe người thanh niên đó đọc xong đã trả lời dứt khoát rằng: Tôi không chắc đó có phải là thơ của Tago không nhưng tôi chắc đó là thơ của Lê Đại Thanh ở Hải Phòng. Hầu hết những tác phẩm thơ ca của Lê Đại Thanh được in trong tập thơ Những ngôi sao biển (1987).

Lê Đại Thanh còn là hội viên sáng lập của nhiều cơ quan văn nghệ nổi tiếng sau này như Hội Nhà văn Việt Nam (1957), Hội Văn nghệ Hải Phòng (1964), cũng như các tờ báo Văn nghệCứu quốc.

Đại gia đình làm nghệ thuật

Bà Đinh Ngọc Anh, vợ của nhà thơ-kịch tác gia Lê Đại Thanh, là con gái nhà tư sản Vạn An Trường của đất Hải Phòng xưa. Bà có thời hoạt động trong đoàn kịch Gió Biển của chồng, từng đóng vai bà mẹ trong vở Bức ảnh của Nguyễn Văn Niêm. Năm 1956 bà là người đầu tiên thể hiện hình tượng người con gái đất đỏ Võ Thị Sáu trên sân khấu kịch do chồng viết kịch bản.

Hai người có tất cả 10 người con, 4 người đã mất từ nhỏ. Hầu hết những người con còn lại trong gia đình Lê Đại Thanh sau này đều thành danh trong sự nghiệp nghệ thuật như con đường của cha mẹ.

Hai người con của ông là Nghệ sĩ ưu tú Lê Mai và Nghệ sĩ ưu tú Lê Chức đều đi theo con đường sân khấu như cha. Một người con khác là Lê Đại Chúc theo đuổi sự nghiệp hội họa.

Nghệ sĩ ưu tú Lê Mai có ba người con gái sau này cũng trở thành những nghệ sĩ nổi tiếng trên sân khấu đương đại là Lê Khanh, Lê Vân và Lê Vi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chân dung nhà thơ Lê Đại Thanh. **Lê Đại Thanh** (1907-1996) là nhà thơ, nhà viết kịch thuộc thế hệ những nghệ sĩ đầu tiên của nghệ thuật sân khấu Việt Nam hiện đại, cùng
**Lê Đại Cương** (chữ Hán: 黎大綱, 1771 - 1847) còn gọi là **Lê Đại Cang**, tự **Thống Thiện**, hiệu **Kỳ Phong**. Ông là một vị quan nổi tiếng tài năng, trung chính thời Nguyễn, trải
**Đại thanh trừng** là một loạt các biện pháp trấn áp tại Liên Xô kéo dài từ mùa thu năm 1936 cho tới đầu năm 1938. Sự kiện này liên quan tới một cuộc thanh
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
**Lê Đại Chúc** (sinh năm 1944 tại Hải Phòng) là một họa sĩ Việt Nam đương đại. Dù xuất thân trong một gia đình giàu truyền thống về văn nghệ, nhưng ông đến với hội
**Lê Văn Thành** (20 tháng 10 năm 1962 – 22 tháng 8 năm 2023) là một chính trị gia Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Phó
**Lê Phước Thanh** (sinh 1956) là một cựu chính khách Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Quảng Nam. Ông từng giữ chức Chủ tịch Ủy
nhỏ|Bản vẽ cắt lớp của một con tàu nô lệ Anh (1788) nhỏ| Mô phỏng một tờ rơi quảng cáo đấu giá nô lệ ở [[Charleston, Nam Carolina, vào năm 1769. ]] **Buôn bán nô
**Lê Nhật Thành** (sinh ngày 7 tháng 8 năm 1975) là sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam. Ông là Đại tá Công an, hiện là Phó Cục trưởng Cục An ninh nội địa,
right|thumb|Cộng đồng người do thái khiêng vác kinh kệ Torah ở ngoài đường khu phố Beitar Illit **Lễ Khánh Thành Torah** ( , ; Ashkenazi: ) là một buổi lễ tôn giáo được tổ chức
**Lê Thị Thanh Xuân** (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1977) là một nữ chính trị gia người Việt Nam, dân tộc M'Nông. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm
**Lê Văn Thành** (tên thường gọi: **Lê Thành**, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1947) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại
**Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Thành phố Paris** (Tiếng Pháp: _Musée d'Art moderne de la Ville de Paris_) nằm trong Palais de Tokyo, thuộc Quận 16 của thành phố. Công trình Palais de
**Giuse Lê Quý Thanh** (1900–1974) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục phó Giáo phận Phát Diệm trong suốt hơn 10
**Lê Thị Thanh Lam** (sinh năm 1974) là chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh, Phó Trưởng đoàn phụ trách đoàn Đại biểu Quốc hội
**_Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ_** (tiếng Trung Quốc: 欽定大清會典事例 / _Qīn dìng dà qīng huì diǎn shì lì_), hay **_Đại Thanh hội điển_** (tiếng Trung Quốc: 大清會典 / _Dà qīng huì diǎn_),
**Lễ Các Thánh** (còn gọi là **Lễ Các Thánh Nam Nữ** hoặc **Lễ Chư Thánh**) là một lễ được tổ chức trọng đại vào ngày 1 tháng 11 hằng năm trong Kitô giáo Tây phương
**Lê Trung Thành** (sinh năm 1943) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Chính ủy Tổng cục Hậu cần, Đại biểu Quốc hội
**Lê Văn Thanh** (黎文清) là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Lê Văn Thanh tham gia phong trào Tây Sơn khi nào không rõ, nhưng ông là tướng lĩnh cao cấp
Cổng đền Vua Lê Đại Hành Tế hội đền Vua Lê vào dịp lễ hội [[cố đô Hoa Lư]] Đường chính đạo đền Vua Lê Đại Hành **Đền Vua Lê Đại Hành** là một di
**Lê Đại** (1875 - 1951), tự **Siêu Tùng**, hiệu **Từ Long**; là chí sĩ yêu nước và là nhà thơ Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. ## Tiểu sử Ông sinh tại làng Thịnh
**Thanh trừng trong nội bộ NKVD** (), còn được gọi là "thời kỳ Yezhov", đề cập đến các cuộc đàn áp quy mô lớn nhằm vào các nhân viên Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD)
**Lê Công Thanh** (1900-1975) là một nhà giáo và là nhà cách mạng Việt Nam thời kỳ trước năm 1945. Ông là Bí thư tỉnh ủy đầu tiên của Hà Nam năm 1930-1932. ## Thân
phải|nhỏ|Công viên Lam Sơn và Nhà hát Thành phố vào đầu năm 2023 thế=Một lễ hội đường phố được tổ chức trên Đường Lê Lợi.|nhỏ|250x250px|Một lễ hội đường phố được tổ chức ngay trên đường
**Lê Thị Thanh Nhàn** (sinh 23 tháng 3 năm 1970) là Vụ Trưởng Vụ tổ chức cán bộ - Bộ Giáo dục và Đào tạo, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học thuộc ĐH
**Đường Lê Duẩn** là một con đường tại trung tâm Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, chạy từ Dinh Độc Lập đến Thảo Cầm Viên. ## Lịch sử trái|nhỏ|Đại lộ Norodom nhìn về hướng
**Đại thành toán pháp**, hay Toán pháp đại thành (chữ Nôm: 算法大成), là một cuốn sách toán học cổ của Việt Nam, được tác giả là Lương Thế Vinh biên soạn vào giữa Thế kỉ
**Lê Chức** (sinh năm 1947), tên khai sinh là **Lê Đại Chức**, là một đạo diễn sân khấu, diễn viên, phát thanh viên, nhà thơ người Việt Nam. Ông được khán giả biết đến qua
Chiều ngày 07/12/2024, tại đền thờ Đức nguyên tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Hội đồng Họ Hồ Việt Nam đã long trọng tổ chức
BỒN TỰ HOẠI ĐẠI THÀNH – GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ LÊ BẢO HÂN trân trọng giới thiệu sản phẩm bồn tự hoại Septic Đại Thành – lựa chọn
BỒN TỰ HOẠI ĐẠI THÀNH – GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ LÊ BẢO HÂN trân trọng giới thiệu sản phẩm bồn tự hoại Septic Đại Thành – lựa chọn
BỒN TỰ HOẠI ĐẠI THÀNH – GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ LÊ BẢO HÂN trân trọng giới thiệu sản phẩm bồn tự hoại Septic Đại Thành – lựa chọn
BỒN TỰ HOẠI ĐẠI THÀNH – GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ LÊ BẢO HÂN trân trọng giới thiệu sản phẩm bồn tự hoại Septic Đại Thành – lựa chọn
BỒN TỰ HOẠI ĐẠI THÀNH – GIẢI PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ LÊ BẢO HÂN trân trọng giới thiệu sản phẩm bồn tự hoại Septic Đại Thành – lựa chọn
**Lê Hoài Thanh** (1950 – 21 tháng 4 năm 2021) là sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2. ## Tiểu
**Chiến tranh Sa quốc Nga - Đại Thanh năm 1654** là cuộc chiến diễn ra năm 1654,giữa Sa quốc Nga và Đại Thanh với lực lượng Triều Tiên hỗ trợ theo yêu cầu của Đại
**Lê Đại Hành** là một phường thuộc quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Phường Lê Đại Hành có diện tích 0,86 km², dân số năm 2021 là 9.493 người, mật độ dân
**Lê Đình Thanh** (sinh năm 1966), là Thầy thuốc Nhân Dân, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ. Ông hiện giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất.. ## Học
 Sáng, ngày 25/7/2023, tại nhà thờ Tộc Phạm Phú Trang, xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, đã tổ chức Lễ Khánh thành nhà thờ Tộc.Tham dự Lễ khánh thành có đại
- Thời gian: Sáng ngày 25/7/2023 - Địa điểm: tại nhà thờ Tộc Phạm Phú Trang, xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam- Về phía địa phương: có Đảng uỷ, Hội đồng nhân
**Lê Xuân Thanh** (sinh năm 1961), từng học tại học viện Hải quân, hàm Thiếu tướng. Cựu Tư lệnh vùng 3 Cảnh sát biển Việt Nam. ## Khai trừ khỏi Đảng Ngày 1.10.2021 Ban Bí
Chi nhánh Công ty Cổ phần Nhựa Tân Á Đại Thành: - Địa chỉ: 315 Ấp 1, Xã Hữu Định, Huyện Châu Thành, Tỉnh Bến Tre, Việt Nam - Mã số thuế: 0315661606-023 - Hotline:
**Đại Thanh hậu cung** (tiếng Hoa: 大清後宮; tiếng Anh: _Concubines of the Qing Emperor_), tên đầy đủ là **_Đại Thanh Hậu Cung Chi Hoàn Quân Minh Châu_** (大清後宮之還君明珠), là bộ phim truyền hình cổ trang
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
Ngày 22 tháng 5 năm 2011, các cử tri Việt Nam đã tham gia cuộc Bầu cử Đại biểu Quốc hội để chọn 500 đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII từ 827 ứng
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
Toàn cảnh [[cố đô Hoa Lư - kinh đô đầu tiên của nhà nước Đại Cồ Việt do Đinh Tiên Hoàng Đế sáng lập]] Phả hệ các triều vua Đại Cồ Việt ở khu di
**_Bình Ngô đại cáo_** (chữ Hán: 平吳大誥) là một bài cáo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc