✨Kosode

Kosode

nhỏ|Các người mẫu mặc kosode tại Jidai-Matsuri năm 2011 là một loại trang phục ngắn tay của Nhật Bản và là tiền thân của kimono. Mặc dù các bộ phận của nó thường song song với các bộ phận của kimono, song lại mang tỷ lệ khác nhau. Kosode thường có phần thân rộng hơn, cổ áo dài hơn và tay áo hẹp hơn. Các tay áo của thường được may liền vào thân và có các cạnh tròn bên ngoài.

Kosode được mặc phổ biến ở Nhật Bản như một loại trang phục hàng ngày từ khoảng thời kỳ Kamakura (1185-1333) cho đến những năm cuối của thời kỳ Edo (1603-1867). Vào thời Edo, trang phục này được sửa đổi theo tỷ lệ giống với Kimono trong thời hiện đại. Cũng từ đó, thuật ngữ 'kimono' (nghĩa là "đồ để mặc"), lần đầu tiên được sử dụng thay cho tên cũ của nó là .

Lịch sử

Kosode xuất hiện từ thời Heian như một loại áo lót cho cả nam và nữ, thường được làm bằng lụa và được mặc sát vào cơ thể. Vào thời đó, cả nam và nữ đều phải mặc bộ trang phục nhiều lớp, chúng đè lên lớp áo . Phụ nữ trong cung đình Nhật Bản thường mặc bộ trang phục (tức "mười hai lớp áo"), số các lớp áo của họ nhiều hơn nam giới. Ngoài ra, cũng được sử dụng như một loại đồ ngủ cùng với .

Về sau, theo các sắc lệnh về trang phục nhằm giảm số lượng lớp mặc trong quần áo mặc trong triều đình, dần trở thành áo mặc bên ngoài từ thời Kamakura trở đi. Cũng trong thời đại này, các kiểu mặc như mặc hai lớp xếp lên nhau và mặc áo choàng trễ vai bên ngoài đã trở nên phổ biến, cùng với một số kỹ thuật dệt mới như nhuộm và thêu đã phát triển và được sử dụng để trang trí.

Kosode nhuộm màu đã xuất hiện trong thời đại Muromachi, chúng trở nên phổ biến hơn vào thời đại Momoyama và dần biến mất trong thời kỳ Keicho và thời đại Edo . Các phương pháp được sử dụng để trang trí bao gồm phương pháp nhuộm được sử dụng trong Muromachi; phương pháp này là sự kết hợp của ("ép lá") và thêu, được gọi là trong thời Momoyama, và ("dệt may theo kiểu Trung Hoa "). Một phương pháp nhuộm khác là cũng từng được sử dụng cho đến khi bị hạn chế bởi các sắc lệnh về việc hạn chế tiêu dùng phung phí và sự phát triển của .

Cấu tạo truyền thống của gồm thân rộng và tay áo tương đối ngắn và hẹpđã dần dần biến mất theo thời gian trước khi giống với kimono hiện đại vào khoảng thời kỳ Edo. Tay áo trên một số của phụ nữ cũng dài hơn và bắt đầu tách ra khỏi thân áo, chiếc theo đó cũng được thiết kế trở nên rộng hơn theo thời gian.

Cấu tạo

Các bộ phận của gần giống như của kimono; sự khác biệt duy nhất giữa chúng là tỷ lệ của từng bộ phận nếu so với kimono hiện đại. Chiều rộng của khung dệt của Kosode lớn hơn và do đó, (vải) được sử dụng để may lớn hơn rất nhiều so với ; tay áo và (cổ áo) cũng được cắt và may viền theo từng chiều rộng khác nhau.

Vào thời kỳ Keichō (1596-1615), ngay trước Thời kỳ Edo, chiều rộng của vải tanmono là khoảng 45 cm, riêng phần tay áo được cắt may bằng một nửa chiều rộng của . Người mặc thường mặc với một chiếc obi hẹp. Do đó, (khoảng mở cổ tay áo) và (chiều rộng của khoảng mở) cũng hẹp, còn (chiều dài cổ áo) dài, và thì ngắn.

  • là phần tay áo của , chúng thường ngắn và bề rộng hẹp , là phần sát với cơ thể nhất, thường có viền tròn may bên ngoài.
  • là phần thân của . Phần này thường rộng hơn, khi mặc vào thường tạo cảm giác phần vai bị cụp xuống.
  • là phần cổ áo của , có bề rộng lớn hơn nếu so với kimono hiện đại, nó cũng thấp hơn và do đó cân xứng với lớp áo .
  • các lớp áo phía trước chồng lên nhau. Do cổ áo dài và thấp, nên Okumi thường có dạng hình tam giác, khác với với okumi có hình tứ giác không đều của kimono hiện đại; điều này đã tạo cho kosode một vẻ ngoài dốc, eo thấp.

Thư viện hình ảnh

Tập tin:Sleeve stylized kosode edo wide shoulder short sleeve.png|alt=A diagram of a person wearing a wrapped-front robe with a wide body and narrow (in horizontal width) sleeves entirely sewn to the body.|Kosode với tay áo ngắn và vai rộng đã từng phổ biến trong Thời kỳ Muromachi cho đến đầu thời kỳ Edo Tập tin:Sleeve stylized kosode 1.png|alt=A diagram of a person wearing a wrapped-front robe with a wide body and comparatively wider sleeves than the previous diagram, also entirely sewn to the body.|Một chiếc Kosode tay rộng . Tập tin:染分紗綾地蜘蛛海松貝模様小袖-Robe (Kosode) with Shells and Sea Grasses MET DP247810.jpg|Một chiếc Kosode với cổ áo và tay rộng. Tập tin:Kosode with yuzen dyeing inside fan and snowflake shapes, 1 of 2, Edo period, 1700s AD, chirimen crepe - Tokyo National Museum - Tokyo, Japan - DSC09592.jpg| với phương pháp nhuộm với họa tiết quạt và bông tuyết của những năm 1700, tại Bảo tàng Nghệ thuật Ishikawa Tập tin:Kosode, late 18th century, Honolulu Museum of Art.JPG| dành cho phụ nữ vào những năm 1800, tại Bảo tàng nghệ thuật Honolulu Tập tin:白縮緬地橘文字模様小袖-Robe (Kosode) with Mandarin Orange Tree and Auspicious Characters MET 2002.325.jpg| với họa tiết cây quýt, cuốt thế kỷ 18, Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan Tập tin:Khalili Collection of Kimono KX142.jpg| dành cho phụ nữ, 1780–1820, Khalili Collection of Kimono Tập tin:Khalili Collection of Kimono KX158.jpg| cho phụ nữ với họa tiết vẽ hình hoa trôi trên bè, vào cuối thế kỷ 19, Khalili Collection of Kimono Tập tin:Historiallisia kimonotyylejä.jpg|Bức tranh mô tả các kiểu mặc . Phía trên bên trái: mặc phần lớp lót; trên phải: lột phần vai xuống theo kiểu ; dưới cùng bên trái: mặc bên ngoài một chiếc áo ; dưới cùng bên phải: trùm lên tấm vải .
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Các người mẫu mặc kosode tại Jidai-Matsuri năm 2011 là một loại trang phục ngắn tay của Nhật Bản và là tiền thân của kimono. Mặc dù các bộ phận của nó thường song song
nhỏ|phải|Hakama của [[miko]] nhỏ|phải|Hakama của môn [[Aikido đang được gấp lại]] là một loại trang phục truyền thống của người Nhật Bản. Những loại quần ống cụt đã được sử dụng ở triều đình Trung
thumb|Phía sau lưng một phụ nữ mặc _kimono_ với khăn quấn _obi_ ở phần thắt lưng theo kiểu _tateya musubi_ là một loại khăn quấn ở phần thắt lưng cho trang phục Nhật Bản truyền
nhỏ|_Netsuke_ hình một chú chó do 虎渓 (Kokei) làm nhỏ|phải|Một người đàn ông đeo một cái _[[inro_ (hộp đựng nhỏ) gắn vào thắt lưng chiếc _hakama_ bằng _netsuke_.]] **_Netsuke_** (tiếng Nhật: 根付) là những đồ
**Kitagawa Utamaro** (, ;  – 31 tháng 10 năm 1806) là một nghệ sĩ Nhật Bản. Ông là một trong những hoạ sĩ được đánh giá cao nhất về tranh in và tranh khắc gỗ
nhỏ|Một người phụ nữ trong trang phục _jūnihitoe_ , tức "mười hai lớp áo" - là loại trang phục dành riêng cho phụ nữ hoàng gia và quý tộc Nhật Bản vào thời Heian. Trên
**Nữ vương Yoshiko** (28 tháng 10 năm 1804 – 27 tháng 1 năm 1893) là em gái của vương tước Tsunahito thuộc nhánh Hữu Tê Xuyên cung (Arisugawa-no-miya), một trong những nhánh họ của Hoàng