✨Kokujin

Kokujin

Kokujin (chữ Hán: 国人, cách đọc Hán Việt: quốc nhân) là từ chủ yếu dùng để chỉ tầng lớp Địa đầu (Jitō) từ thời đại Kamakura và tầng lớp võ sĩ đi khai phá các xứ từ thời Nam Bắc Triều (Nambokuchō) cho đến thời Muromachi. Về thực chất, đây là các lãnh chúa phong kiến ở địa phương và còn được gọi chung là "quốc chúng" (国衆, Kunishū) hoặc "quốc nhân chúng" (国人衆, Kokujinshū).

Khái yếu

Quốc nhân là danh từ chung chỉ tầng lớp cai quản các trang viện, đất công trong thể chế Vương triều quốc gia (Ōchō kokka) được thành lập vào giữa thời Heian và các lãnh chúa địa phương (Địa đầu) phát sinh nhiều từ thời Kamakura trở đi. Từ này còn là một thuật ngữ trong các tư liệu cùng thời, mang hàm ý chỉ các thế lực bản địa chống đối lại với các thế lực cai trị từ bên ngoài địa phương như Mạc phủ, các thủ hộ (Shugo) hay lãnh chúa trang viện và nhắm đến việc cai trị lãnh địa của mình.

Người ta bắt gặp từ này thỉnh thoảng xuất hiện từ thời Kamakura được sử dụng để chỉ các võ sĩ có thế lực độc lập ngụ cư ở địa phương. Nguồn gốc của các võ sĩ này bắt nguồn trực tiếp từ chức Địa đầu thời Kamakura. Các võ sĩ này sau đó định cư tại địa phương và trở thành các lãnh chúa cai quản địa phương đó. Vào thời Kamakura, vì có ý chống đối với giai cấp cai trị bên trên mà tầng lớp này còn được gọi bằng từ "Ác đảng" (Akutō, băng đảng kẻ xấu).

Vai trò của tầng lớp võ sĩ này chỉ thực sự trở nên quan trọng khi Mạc phủ Kamakura suy tàn cho đến thời Nam Bắc Triều, nhất là trong thời loạn Kannō. Các lãnh chúa địa phương này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền chính trị, quân sự của các xứ trong thời Nam Bắc Triều. Mặt khác, các quốc nhân này cũng rất nhạy cảm với các động thái chính trị ở trung ương.

Lực lượng quốc nhân ngày càng mạnh mẽ hơn và bắt đầu tác động tới hành động của Mạc phủ Muromachi, các Shugo Daimyō và các lãnh chúa trang viện. Trong bối cảnh này, tầng lớp quân nhân dần thắt chặt quản lý của họ đối với tầng lớp nông dân, phản kháng lại sự cai trị và can thiệp của Mạc phủ Muromachi và các Đại danh Thủ hộ (Shugo Daimyō), góp phần tăng trưởng nền kinh tế địa phương, kinh tế lưu thông cùng với sự phát đạt của các hình thức kinh doanh vận chuyển, chuyên chở hàng hóa.

Các lãnh chúa địa phương này còn bước thêm một bước nữa so với kiểu cai trị mang tính tảng mác ở các địa phương của tầng lớp lãnh chúa Địa đầu kiểu cũ bằng việc cai trị vùng kinh tế tập trung trong lãnh địa của họ. Các quốc nhân còn can thiệp vào xung đột giữa các lãnh chúa trang viện và tầng lớp quý tộc hạ cấp, có được quan tước và bắt đầu đảm nhận chánh vụ hành chánh. Cách cai quản của Kokujin đối với đất đai và nông dân được đánh giá là chặt chẽ hơn so với cách cai quản kiểu cũ thông qua việc điều tra diện tích ruộng đất và hoàn trả di dân. Quốc nhân ở các địa phương còn có mối liên kết với nhau để phòng việc di dân từ lãnh địa này sang lãnh địa khác mà theo đó, người dân nào chuyển đổi nơi sinh sống, nếu bị phát hiện sẽ bị bắt trả về nơi cũ.

Đối với tầng lớp cai trị từ bên ngoài như các thủ hộ (shugo) hay các lãnh chúa trang viện thì các Kokujin vừa chịu sự chi phối một phần, vừa tăng cường sức mạnh quân sự của mình bằng việc quan chức hóa tầng lớp Jisamurai trong lãnh địa của mình và liên hợp với các Kokujin khác để chống lại. Từ thời Nam Bắc Triều cho đến Muromachi đã xảy ra nhiều vụ nổi loạn ở các địa phương. Những vụ này mang nhiều hình thái khác nhau nhưng đều có thể xem là sự liên kết của các Kokujin.

Đến thời Chiến Quốc, khi sự cai trị của các Đại danh Thủ hộ (Shugo Daimyō) suy yếu thì tầng lớp Quốc nhân trở thành lãnh chúa độc lập cát cứ tại các địa phương. Phần lớn các Quốc nhân trong thời kỳ này đều trở thành gia thần cho các Đại danh Chiến quốc(Sengoku Daimyō) như họ Kiso và họ Murakami. Tuy nhiên trong số đó cũng xuất hiện các Quốc nhân dần bành trướng thế lực, trở thành các lãnh chúa đại danh hùng mạnh như họ Mōri, họ Chōsokabe, họ Ryūzōji và họ Tamura.

Danh sách Kokujin chủ yếu ở các địa phương

Hokkaidō

Vùng Tōhoku

Vùng Kantō

Vùng Chūbu

Vùng Kinki

Vùng Chūgoku

Vùng Shikoku

Vùng Kyūshū

Mục liên quan

Hào tộc Nhật Bản Thổ hào Nhật Bản

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kokujin** (chữ Hán: 国人, cách đọc Hán Việt: quốc nhân) là từ chủ yếu dùng để chỉ tầng lớp Địa đầu (Jitō) từ thời đại Kamakura và tầng lớp võ sĩ đi khai phá các
**Mōri Motonari** (kanji: 毛利 元就, phiên âm Hán Việt: _Mao Lợi Nguyên Tựu_) là một lãnh chúa _Daimyō_ xứ Aki vào cuối thời kỳ Muromachi cho đến thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Nhật
nhỏ|[[Shimazu Nariakira, daimyo của lãnh địa Satsuma, trong bức hình chụp đage của Ichiki Shirō]] () là những lãnh chúa phong kiến từ thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 19 ở Nhật Bản thần
**Myōkyū** (妙玖, Hán Việt: Diệu Cửu) là chánh thất của Mōri Motonari, một danh tướng thời Chiến Quốc tại Nhật Bản. Bà sinh vào năm Meiō thứ 8 (1499) và mất vào ngày 30 tháng
Uesugi Kenshin, con rồng xứ Echigo, vị thần chiến tranh. là một daimyo làm chủ tỉnh Echigo trong thời kỳ Sengoku ở Nhật Bản. Ông là một trong những lãnh chúa hùng mạnh vào thời
, còn gọi là là một daimyo và thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi trong thời đại Azuchi-Momoyama. Ông là con trai của Hachisuka Masatoshi. Gia tộc Hachisuka là _kokujin_ ở huyện Kaitō tỉnh Owari (ngày
**Hyakuman Isshin** (Hán tự: 百万一心, cách đọc Hán Việt: bách vạn nhất tâm) là bốn chữ Hán được khắc trên tấm bia đá được chôn thay cho người khi Mōri Motonari mở rộng thành Yoshidakōri
| label2 = Kanji | data2 = | label3 = Kana | data3 = | label4 = Hiragana | data4 = | label5 = Katakana | data5 = | label6 = Kyūjitai | data6 =