✨Karpat-Ukraina

Karpat-Ukraina

Karpat-Ukraina hay Ukraina Karpat (, ) là một khu tự trị của Tiệp Khắc, được thành lập vào tháng 12 năm 1938 khi đổi tên vùng Podkarpatská Rus (Rus cận Karpat). Quyền tự trị hành chính và chính trị đầy đủ của khu vực được xác nhận theo luật Hiến pháp vào ngày 2 tháng 11 năm 1938. 20 năm trước đó, khu vực tách khỏi Vương quốc Hungary và bị đưa vào nước Tiệp Khắc mới thành lập theo Hiệp ước Trianon năm 1920. Ngày 2 tháng 11 năm 1938, Quyết định Wien lần thứ nhất tách một phần lãnh thổ Tiệp Khắc, bao gồm miền nam Podkarpatská Rus cho Hungary. Sau khi Đệ Nhị Cộng hòa Tiệp Khắc tan rã, Karpat-Ukraina tuyên bố là một nước cộng hòa độc lập vào ngày 15 tháng 3 năm 1939. Nhà nước đoản mệnh này kết thúc khi Hungary xâm chiếm vào ngày 18 tháng 3 năm 1939.

Khu vực này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Hungary cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai ở châu Âu, sau đó khu vực bị Liên Xô chiếm đóng và sáp nhập. Lãnh thổ hiện được quản lý với tên gọi tỉnh Zakarpattia của Ukraina.

Lịch sử

thumb|left|Bản đồ Karpat-Ukraina thumb|left|Luật Hiến pháp vè quyền tự trị của Podkarpatská Rus (1938)

Tự trị chính trị

Theo Hiệp ước München được ký ngày 30 tháng 9 năm 1938, Tiệp Khắc mất phần lớn khu vực biên giới vào tay Đức Quốc xã. Ngay sau đó, một loạt cải cách chính trị được khởi xướng, dẫn đến việc thành lập Đệ Nhị Cộng hòa Tiệp Khắc, bao gồm ba thực thể chính trị tự trị như Slovakia tự trị và Podkarpatská Rus tự trị. Chính quyền địa phương đầu tiên của Podkarpatská Rus tự trị được bổ nhiệm vào ngày 11 tháng 10 năm 1938, đứng đầu là Thủ tướng Andrej Bródy. Trong những ngày tiếp theo, một cuộc khủng hoảng xảy ra giữa hai nhóm địa phương, ủng hộ Rusyn và ủng hộ Ukraina, dẫn đến việc chính phủ của Andrej Bródy phải từ chức vào ngày 26 tháng 10. Chính quyền khu vực mới do Avgustyn Voloshyn đứng đầu áp dụng đường lối thân Ukraina và bắt đầu đổi tên khu vực, từ Podkarpatská Rus (Rus hạ Karpat) thành Karpat-Ukraina.

Đề xuất này đã mở ra một cuộc tranh luận chính trị mới. Vào ngày 22 tháng 11 năm 1938, các nhà chức trách của Đệ Nhị Cộng hòa Tiệp Khắc quyết định thông qua Luật Hiến pháp về Quyền tự trị của Podkarpatská Rus (tiếng Czech: Ústavní zákon o autonomii Podkarpatské Rusi), chính thức tái khẳng định quyền tự quyết của người Rusyn (lời mở đầu), và cũng xác nhận quyền tự trị hoàn toàn về hành chính và chính trị của Podkarpatská Rus, với hội đồng và chính phủ riêng. Thuật ngữ như vậy được coi là minh chứng cho sự ủng hộ của nhà nước đối với phe phái ủng hộ Rusyn, và vào ngày 30 tháng 12 năm 1938, chính quyền địa phương đã phản ứng bằng cách ban hành một sắc lệnh tạm thời tuyên bố đổi tên khu vực thành Karpat-Ukraina. Điều này dẫn đến việc tạo ra một thế song hành thuật ngữ. Trong hệ thống hiến pháp của Đệ Nhị Cộng hòa Tiệp Khắc, khu vực tiếp tục được gọi chính thức là Podkarpatská Rus, trong khi các tổ chức địa phương tiếp tục thúc đẩy việc sử dụng thuật ngữ Karpat-Ukraina.

Khủng hoảng chính trị

Vào cuối tháng 9 năm 1938, Hungary sẵn sàng huy động quân ở biên giới Tiệp Khắc trong trường hợp vấn đề Tiệp Khắc không thể giải quyết ở cấp độ ngoại giao, theo hướng có lợi cho các yêu sách lãnh thổ của Hungary. Quân đội Tiệp Khắc đã xây dựng 2.000 cứ điểm bê tông nhỏ dọc theo biên giới ở những nơi mà các con sông không phải là chướng ngại vật tự nhiên.

Bộ trưởng Nội vụ Hungary Miklós Kozma sinh ra ở Podkarpatská Rus, và vào giữa năm 1938, bộ của ông trang bị cho Rongyos Gárda ('cận vệ rách rưới'), lực lượng này bắt đầu xâm nhập du kích dọc theo biên giới phía nam của Tiệp Khắc; vào Slovakia và Podkarpatská Rus. Tình hình lúc này đang cận kề một cuộc chiến tranh mở, có thể khiến cả châu Âu bùng cháy trở lại. Phụ lục của Hiệp định München kết luận Tiệp Khắc và Hungary cần giải quyết tranh chấp bằng đàm phán với nhau. Do không thể đạt được thỏa thuận cuối cùng nên chính phủ Hungary và Tiệp Khắc chấp nhận Trọng tài Wien Đức-Ý vì Pháp và Anh từ chối sự tham gia do không quan tâm. Điều này dẫn đến Quyết định Wien lần thứ nhất.

Vào ngày 2 tháng 11 năm 1938, quyết định này phần lớn có lợi cho người Hungary và buộc chính phủ tại Praha phải nhượng 11.833 km² của Slovakia và Ruthenia Karpat cho Hungary. Điều này không chỉ chuyển nhà của khoảng 590.000 người dân tộc Hungary sang Hungary, mà cả 290.000 người Slovak và 37.000 người Rusyn. Kết quả là, Tiệp Khắc mất gần như toàn bộ vành đai công sự dọc theo biên giới Hungary và một số kho tàng lớn.

Quyền tự trị của Slovakia đã được quốc hội Praha chính thức hóa vào ngày 19 tháng 11. Karpat-Ukraina cũng được trao quyền tự trị.

Trọng tài Wien không khiến bên nào hoàn toàn hài lòng, và sau đó đã xảy ra 22 cuộc xung đột biên giới từ ngày 2 tháng 11 năm 1938 đến ngày 12 tháng 1 năm 1939. Sự kém hiệu quả của chính phủ Praha trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia càng kích động chủ nghĩa dân tộc của người Slovak và người Ukraina. Vào ngày 6 tháng 1 năm 1939, quân đội Tiệp Khắc do tướng Lev Prchala ra lệnh đã thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ vào thành phố Munkács (nay là Mukacheve), khi đó Sich Karpat cũng tham gia, nhưng Rongyos Gárda với sự giúp đỡ của cảnh sát địa phương đã đẩy lùi họ. Sau sự cố này, đại sứ Hungary tại Berlin là Döme Sztójay chuyển một thông điệp tới chính phủ Đức là trong trường hợp Đức chiếm đóng các vùng đất của Séc và tuyên bố Slovakia độc lập, Hungary sẽ chiếm phần còn lại của Ruthenia Karpat, bất kể sự chấp thuận của Đức. Vào ngày 11 tháng 3, đại sứ Đức tại Budapest đã nêu trong phản hồi của Chính phủ Đức rằng nếu Hungary vẫn duy trì và ủng hộ các hợp đồng kinh tế với Đức, tôn trọng quyền của người Đức địa phương và sẽ không bức hại các thành viên của Nội các Voloshyn, sau đó trong trường hợp tuyên bố về một Karpat-Ukraina độc ​​lập sẽ đồng ý với các kế hoạch của Hungary.

Tuyên bố độc lập

Chủ nghĩa dân tộc của người Slovakia và Ukraina ngày càng mãnh liệt. Sau tuyên bố độc lập của Slovakia vào ngày 14 tháng 3 và việc Đức quốc xã chiếm đóng các vùng đất Czech vào ngày 15 tháng 3, Karpat-Ukraina tuyên bố độc lập với tên gọi Cộng hòa Karpat-Ukraina, Avgustyn Voloshyn là người đứng đầu nhà nước. Voloshyn lúc này được cư dân khu vực ủng hộ. Luật Hiến pháp đầu tiên của Karpat-Ukraina ngày 15 tháng 3 năm 1939 đã định nghĩa quốc gia mới như sau:

Karpat-Ukraina là một quốc gia độc lập

Tên nước là: Karpat-Ukraina

Karpat-Ukraina là một nước cộng hòa, đứng đầu là tổng thống được bầu bởi của Karpat-Ukraina

Ngôn ngữ nhà nước của Karpat-Ukraina là tiếng Ukraina

Quốc kỳ của Karpat-Ukraina có màu xanh dương và vàng, xanh dương ở trên và vàng ở dưới

Quốc huy của Karpat-Ukraina như sau: một con gấu trên nền đỏ ở bên phải, bốn sọc xanh và ba sọc vàng ở bên trái, cũng như cây đinh ba của Thánh Volodymyr Vĩ đại

Quốc ca của Karpat-Ukraina là "Ukraina chưa bị diệt vong"

Đạo luật này có hiệu lực ngay sau khi ban hành

Chính phủ Karpat-Ukraina có người đứng đầu là Tổng thống Avgustyn Voloshyn,

Các đơn vị Biên phòng Hungary đóng xung quanh Munkács, sau khi đẩy lùi các đơn vị Tiệp Khắc đang tấn công vào ngày 14 tháng 3 năm 1939, họ lần lượt tiến lên và chiếm thị trấn Őrhegyalja (ngày nay là Pidhoriany thuộc Mukachevo).

Vào ngày 15 tháng 3 năm 1939, quân chính quy của Quân đội Hungary xâm chiếm Karpat-Ukraina và đến Szolyva khi màn đêm buông xuống. Quân đội không chính quy Karpat-Ukraina là Sich Karpat không có sự hỗ trợ bổ sung, và đã nhanh chóng bị đánh tan tác. Những thành viên Sich đến từ tỉnh Galicia với tư cách là công dân Ba Lan đã bị người Hungary bắt và giao cho binh lính Ba Lan vì tội vượt biên trái phép, khoảng 500-600 người bị binh lính Ba Lan hành quyết. Ổ kháng cự cuối cùng ở vùng núi Karpat bị tiêu diệt vào ngày 18 tháng 3. quê ở Presov và là nạn nhân sống sót sau các vụ truy tố của Liên Xô và Hungary. Khi Hungary xâm chiếm Karpat-Ukraina năm 1939, ông là cha tuyên úy của Sich Karpat ở Khust. Vào ngày 16–18 tháng 12 năm 1948, tại Praha, Sabol bị kết án tù chung thân vắng mặt vì tội hợp tác với Quân nổi dậy Ukraina.

  • Avgustyn Voloshyn (1874–1945), chết trong nhà tù Liên Xô sau khi bị SMERSH bắt ở Praha năm 1945
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karpat-Ukraina** hay **Ukraina Karpat** (, ) là một khu tự trị của Tiệp Khắc, được thành lập vào tháng 12 năm 1938 khi đổi tên vùng Podkarpatská Rus (Rus cận Karpat). Quyền tự trị hành
thumb|Tỉnh Zakarpattia (màu đậm), phía tây Ukraina. thumb|Huy hiệu của Karpat-Ukraina, hiện được [[tỉnh Zakarpattia sử dụng.]] **Ruthenia Karpat** () là một vùng lịch sử trên ranh giới giữa Trung và Đông Âu, hiện nay
**Dãy núi Karpat** hay **dãy núi Carpat** (; Séc, Ba Lan và Slovakia: _Karpaty_; Ukraina: _Карпати_ (Karpaty); Đức: _Karpaten_; Serbia: _Karpati_ / _Карпати_; Hungary: _Kárpátok_) là một dãy núi tạo thành hình vòng cung dài
[[Hình:Etnos0.gif|thumb|Bản đồ dân tộc của tỉnh Zakarpattia năm 2001. ]] **Người Hungary tại Ukraina** (, , tr. _uhortsi v Ukraini_) có số lượng 156.600 người theo điều tra nhân khẩu Ukraina năm 2001 và là
**Người Ukraina** (, ) là một dân tộc Đông Slav bản địa tại Ukraina. Bản ngữ của người Ukraina là tiếng Ukraina. Đa số người Ukraina là tín đồ Chính thống giáo Đông phương, một
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
Ukraina chủ yếu có hai vùng núi chính, là dãy núi Karpat ở phía tây nam và dãy núi Krym thuộc bán đảo cùng tên đang do Nga kiểm soát. Ukraina nằm ở đồng bằng
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina** (, УРСР; УССР), viết tắt là **CHXHCNXV Ukraina** và còn gọi là **Ukraina Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa cấu thành của Liên
**Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina** hoặc **Cộng hoà Dân tộc Ukraina** (; viết tắt ), trong một khoảng thời gian tồn tại gọi là **tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina** (
**Nhà thờ gỗ _Tserkvas_ của vùng Carpath tại Ba Lan và Ukraina** (tiếng Ba Lan: Drewniane cerkwie regionu karpackiego w Polsce i na Ukrainie; ) là một nhóm nhà thờ gỗ Công giáo Đông phương,
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) xác định Di sản thế giới có giá trị phổ quát nổi bật là di sản văn hóa hoặc tự nhiên đã
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Các đơn vị hành chính của Ukraina** () thuộc thẩm quyền của Hiến pháp Ukraina. Ukraina là một nhà nước đơn nhất gồm ba cấp đơn vị hành chính: 27 khu vực (24 tỉnh, 2
thumb|Các vùng thủy văn Ukraina Khoảng 63.000 sông với tổng chiều dài khoảng 206.000 km chảy qua lãnh thổ Ukraina, trong đó khoảng 3.000 sông dài trên 10 km và 115 sông dài trên 100 km. Tính chất
Vị trí của Quân khu Karpat trên bản đồ Liên Xô và Đông-Trung Âu. **Quân khu Karpat** (tiếng Nga: **Прикарпатский военный округ**) là một quân khu của Quân đội Liên Xô. Quân khu này bảo
**Phương diện quân Ukraina 2** (tiếng Nga: _2-й Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, hoạt động trên hướng Tây Nam Ukraina,
**Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina** () là biên chế cấp Cụm tập đoàn quân của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, tác chiến tại chiến trường Tây Ukraina trong hơn
**Latorica** (; ; ) là phụ lưu tả ngạn của sông Bodrog, thuộc lưu vực sông Danube. Sông chảy trên lãnh thổ Ukraina và Slovakia. ## Mô tả Chiều dài của sông là 188 km (156,6 km
[[Tập tin:Kajetan Saryusz-Wolski – Русь.jpg|thumb|Bưu chính năm 1907 của họa sĩ Ba Lan mô tả các biểu tượng quốc gia của Ruthenia:
1. Tổng lãnh thiên thần Micae, thánh bảo trợ của Kyiv và Ukraina
thumb|[[Dãy núi Karpat thuộc Ukraina phân chia Prykarpattia (phía đông bắc) với Zakarpattia (phía tây nam)]] **Prykarpattia** () là một thuật ngữ tiếng Ukraina để chỉ **Nội Karpat**, một khu vực địa lý tự nhiên
**Người Rusyn** () đôi khi được gọi là **người Rusnak** () còn được gọi là **người Karpat-Ruthenia** hoặc **người Karpat-Rusyn** () là một nhóm sắc tộc thuộc nhóm Đông Slav. Họ sinh sống ở các
**Tỉnh Zakarpatsk** hay **Zakarpattia** (tiếng Ukraina: Закарпатська область) là một tỉnh (oblast) nằm ở phía tây nam của Ukraina. Tỉnh có cùng ranh giới với khu vực lịch sử Karpat Ruthenia và có đường biên
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Sông Stryi** () bắt đầu tại dãy núi Karpat tại miền tây Ukraina. Sông uốn khúc qua các ngọn núi với chiều dài 231 km. Sau khi chảy qua 193 km, sông đến thành phố Stryi. Sông
**Sông Cheremosh** () là một phụ lưu hữu ngạn của sông Prut tại Ukraina, thuộc lưu vực sông Danube. Chornyi Cheremosh dài 87 km và diện tích lưu vực là 856 km2, còn Bilyi Cheremosh dài 61 km
phải|Bồn địa Pannonia (đánh dấu III.), bao quanh bởi [[Dãy núi Karpat và cao nguyên Transilvania (IV.) ở phía đong và bắc. Trên bản đồ cũng có các vùng đất thấp Romania (II.) và các
**Trận Kiev (1943)** là một trong các trận đánh quan trọng nhất của chuỗi Chiến dịch Tả ngạn sông Dniepr. Từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 24 tháng 12 năm 1943, trên toàn bộ
thumb|Đại biểu của Pokuttia (khoảng 1639) thumb|right|Pokuttia **Pokuttia**, còn viết là **Pokuttya** hay **Pokutia** (; ), là một khu vực lịch sử của Đông-Trung Âu, nằm giữa sông Dniester và Cheremosh và dãy núi Karpat,
thumb|Tiêu đề đọc là tỉnh Podolia, bộ phận của Ukraina **Podolia** hay **Podilia** (, ; ) là một khu vực lịch sử tại Đông Âu, nằm tại phần tây-trung và tây-nam của Ukraina và tại
**Ruthenia Đỏ**, hay ** Rus' Đỏ, Hồng Nga, Nga Đỏ** (; __; ; ), là một thuật ngữ được sử dụng từ thời Trung cổ để chỉ các thân vương quốc phía tây nam của
thumb|Budjak trên bản đồ Ukraina thumb|Pháo đài [[Bilhorod-Dnistrovskyi của Moldavia từ thế kỷ 14 tại Budjak.]] **Budjak** hay **Budzhak** (; ), là một khu vực có tính lịch sử tại Ukraina và Moldova. Khu vực
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Oleh Yaroslavovych Tyahnybok** (tiếng Ukraina: Оле́г Яросла́вович Тягнибо́к, sinh 7/11/1968) là một chính trị gia Ukraina, nhà lãnh đạo của đảng chính trị dân tộc cực hữu Svoboda . Ông từng là một thành viên
**Công quốc Bukovina** (; ; ) là một lãnh địa cấu thành của Đế quốc Áo từ năm 1849 và một lãnh địa hoàng gia Cisleithania của Áo-Hung từ 1867 đến 1918. ## Tên gọi
**Nazariy Nazarovych Yaremchuk** () là một ca sĩ người Hutsul Ukraina sinh ra tại ngôi làng Rivnya thuộc tỉnh Chernivtsi. Sau khi qua đời, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Ukraina vào tháng
**Galicia** (, ; , ) là một khu vực lịch sử và địa lý trải dài tại nơi ngày nay là miền đông nam Ba Lan và miền tây Ukraina, một thời gian dài là
thumb|Ảnh thành phố và nhà máy điện hạt nhân Chernobyl từ trạm Mir, 1997 **Chernobyl** (, , ), còn được gọi là **Chornobyl** (; ), là một thành phố bị bỏ hoang một phần trong
**Các khu rừng sồi nguyên sinh trên dãy Carpath và các khu vực khác của châu Âu** là khu vực thiên nhiên phức tạp trải dài qua 17 quốc gia của châu Âu. Trong đó,
**Tỉnh Stanisławów** () là một khu vực hành chính của Ba Lan giữa hai thế chiến (1920–1939). Tỉnh được thành lập vào tháng 12 năm 1920 với trung tâm hành chính ở Stanisławów. Tỉnh có
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
thumb|Kalwaria Pacławska, Ba Lan **Wiar** hay **Vihor** () là một phụ lưu tả ngạn của sông San tại đông nam Ba Lan và tây Ukraina. Sông dài 70,4 km, và đổ vào sông San gần Przemyśl.
**Andrei Ivanovich Yeryomenko** hoặc **Yeremenko**, **Eremenko** (tiếng Nga: _Андрей Иванович Ерёменко_) (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1892, mất ngày 19 tháng 11 năm 1970) là một tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân Liên
**Prut** (cũng viết là **Pruth**; , ) là một sông dài tại Đông Âu. Một phần dòng chảy của sông tạo thành biên giới giữa România và Moldova. ## Tổng quan Trong thời cổ điển,
**Tỉnh Ruthenia** (tiếng Latin: _Palatinatus russiae_, tiếng Ba Lan: _Województwo ruskie_, tiếng Ukraina: _Руське воєводство_, Latinh hóa: _Ruske voievodstvo_), còn gọi là tỉnh Rus’, là một tỉnh của Vương quốc Ba Lan từ năm 1434
phải|nhỏ|310x310px|Thân vương quốc Galicia-Volyn trên bản đồ Đông Âu **Thân vương quốc Galicia-Volyn** (1199–1392) (tiếng Nga: _Га́лицко-Волы́нское кня́жество_, , , tiếng Ukraina: _Галицько-Волинське князівство_) là một Thân vương quốc Nga phía tây nam dưới thời
**Seret** (tiếng Ukraina: Серéт) là phụ lưu tả ngạn của sông Dniester, phần lớn chảy trong tỉnh Ternopil của Ukraina. Sông có chiều dài là và diện tích lưu vực là . Các đô thị
**Vương quốc Hungary** từng là một quốc gia nằm ở Trung Âu có phần lãnh thổ mà ngày nay thuộc Hungary, Slovakia, Transilvania (nay thuộc Romania), Ruthenia Karpat (nay thuộc Ukraina), Vojvodina (nay thuộc Serbia),
**Phủ Toàn quyền** (; ; ) chỉ các vùng lãnh thổ của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan trước đây, bị Đức Quốc xã chiếm đóng quân sự từ năm 1939 đến 1945 nhưng không
**Siret** (, ) hay **Seret** (), là sông khởi nguồn từ dãy Karpat tại vùng Bắc Bukovina của Ukraina, và chảy về phía nam qua Romania rồi đổ vào sông Danube. ## Mô tả Sông
**Dãy núi Sanok-Turka** (; ) là một dãy núi ở Đông Beskids, bên ngoài rìa phía đông Carpathians. Nó nằm ở khu vực biên giới phía nam giữa Ba Lan và Ukraine. Dãy núi Sanok-Turka