✨Jordan Grand Prix

Jordan Grand Prix

Jordan Grand Prix là đội đua xe ô tô Công thức 1 thi đấu trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2005. Tên đội đua được đặt theo tên của người sáng lập, một doanh nhân người Ireland, ông Eddie Jordan. Đội có trụ sở tại Silverstone, Vương quốc Anh nhưng chạy đua với giấy phép của Ireland.

Có rất nhiều tay đua Công thức 1 tên tuổi đã từng là thành viên đội đua này như Rubens Barrichello, Giancarlo Fisichella, Ralf Schumacher, và đặc biệt là huyền thoại Công thức 1 người Đức Michael Schumacher.

Đầu năm 2005, đội được bán cho công ty Midland Group và sau đó thi đấu với tên gọi Midland F1.

Lịch sử

Nguồn gốc

Eddie Jordan đã là tay đua Công thức 1 vào cuối những năm 1970 trong một thời gian ngắn trước khi thành lập đội đua Eddie Jordan Racing vào đầu những năm 1980. Đội lần đầu tiên trở nên nổi bật trong giải đua Công thức 3 nước Anh năm 1983 với cuộc đọ sức giữa tay đua thử nghiệm một lần của Jordan Ayrton Senna và tay đua Jordan-Ralt Martin Brundle. Brundle đã bị tay đua người Brasil vượt qua ở vòng cuối cùng của giải vô địch. Đội đã giành được chức vô địch ở giải đua Công thức Quốc tế 3000 vào năm 1988 và giành chiến thắng ở chặng đua đầu tiên ở hạng mục này với Johnny Herbert. Năm 1989, Jordan giành chức vô địch của giải F3000 với ngôi sao Công thức 1 trong tương lai Jean Alesi. Nhóm cũng đã điều hành các tay đua Công thức 1 trong tương lai như Martin Donnelly và Eddie Irvine trong F3000.

1991: Mùa giải đầu tiên thành công của đội

Đối với mùa giải 1991, đội Jordan tham gia Công thức 1 và nhanh chóng nhận được hỗ trợ tài chính từ Fujifilm, nhà sản xuất đồ uống 7 Up và công ty quảng cáo du lịch Ireland. Jordan 191 là chiếc xe đua đầu tiên mà đội tự thiết kế cho mùa giải này. Công việc phát triển phần lớn do kỹ sư Gary Anderson thực hiện. Chiếc xe này đã sử dụng động cơ tám xi-lanh của Cosworth. Tuy nhiên, không giống như các đội đua khách hàng khác của Cosworth, nó không phải là động cơ DFR tương đối yếu, mà là động cơ từ thế hệ HB được Benetton sử dụng độc quyền vào năm 1990.

Các tay đua chính của đội là Andrea de Cesaris, người đã mang về cho đội thêm tiền tài trợ từ Marlboro Italia, và Bertrand Gachot. Khi Gachot bị buộc tội hành hung một tài xế taxi ở Luân Đôn vào cuối mùa hè năm 1991, ông ta đã bị kết án tù. Do vậy đội đã thay thế ông ta bằng tay đua người Đức Michael Schumacher trước thềm giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ. Thế nhưng, ngay tại cuộc đua tiếp theo, Schumacher đã chuyển sang Benetton và Jordan đã trao chỗ lái còn trống của Gachot lần lượt cho Roberto Moreno và Alessandro Zanardi trong các chặng đua còn lại của mùa giải.

Mùa giải đầu tiên là một thành công: Đội là đội mới thành công nhất trong mười năm qua. De Cesaris đã hoàn thành năm cuộc đua ở vị trí tính điểm, Gachot ba lần. Ngoài ra, Gachot đã lập vòng đua nhanh nhất ở giải đua ô tô Công thức 1 Hungary. Cuộc đua của Michael Schumacher với đội đã gây chấn động: Schumacher vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ bảy mặc dù ông ta đã khá bất ngờ với vị trí đó. Tuy nhiên, trong cuộc đua, ông ta đã không thể hoàn thành một vòng đua nào vì lỗi máy móc.

Jordan đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các tay đua với 13 điểm.

1992: Mùa giải yếu kém với động cơ Yamaha

nhỏ|Chiếc xe Jordan 192 cho mùa giải [[Công thức 1 năm 1992]] Trong mùa giải thứ hai của đội, đội Jordan đã đạt được một số thành công. Jordan đã thay đổi nhiều thiết bị kỹ thuật vào đầu mùa giải và hiện sử dụng động cơ mười hai xi-lanh của Yamaha thay vì động cơ Cosworth. Sự thay đổi chủ yếu là vì lý do tài chính: đội đang gặp khó khăn về tài chính do chi phí của mùa giải đầu tiên và do vậy đã nhận được động cơ miễn phí Yamaha ít được săn đón. Gary Anderson đã điều chỉnh khung gầm hiện có cho động cơ mới và chiếc xe đua của đội trong mùa giải này tên là Jordan 192. Tay đua chính của đội là Stefano Modena và Maurício Gugelmin.

Kết quả cuộc đua mà đội Sasol Jordan Yamaha đạt được trong năm thứ hai là một sự thất vọng so với năm đầu tiên của họ. Các nhà quan sát đánh giá diễn biến của mùa giải 1992 là một "thảm họa". Tại chặng đua mở màn ở Nam Phi, Modena không vượt qua được vòng phân hạng và cũng không làm được như vậy ở các chặng đua ở Monaco, Hungary và Bồ Đào Nha. Theo Gary Anderson, việc không đủ tiêu chuẩn đã khiến Modena mất tinh thần: "Vì tính khí nóng nảy, Modena đã không thể vượt qua các vấn đề tâm lý. Chúng tích tụ và ngày càng làm suy yếu động lực của ông.”.

Barrichello và Irvine trở lại trong mùa giải 1994 và tiếp tục sử dụng động cơ Hart nhưng Irvine đã có một khởi đầu mùa giải tệ hại khi bị cấm thi đấu ở ba cuộc đua vì đua nguy hiểm liều lĩnh. Barrichello đã giúp đội về đích đầu tiên trong vị trí top 3 tại giải đua ô tô Công thức 1 Thái Bình Dưong nhưng gần thiệt mạng trong chặng đua tiếp theo ở San Marino sau một vụ va chạm kinh hoàng ở vòng phân hạng. Đội đã vượt qua những khó khăn này và trở lại phong độ ban đầu khi họ đứng thứ 5 trong bảng xếp hạng các đội đua. Barrichello đã giành được vị trí pole đầu tiên cho Jordan sau một vòng phân hạng ẩm ướt ở Bỉ và đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng các tay đua với 19 điểm. Thành tích này đã khiến các đội lớn của Công thức 1 phải sửng sốt vì một đội có kinh phí thấp như vậy với động cơ do Hart Engineering thiết kế và chế tạo đã giành được vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các đội đua với 28 điểm.

1995-1997: Sử dụng động cơ Peugeot

nhỏ|Rubens Barrichello ở [[giải đua ô tô Công thức 1 San Marino 1996 ở trường đua Imola]] Sau hai năm, Jordan đã thay thế nhà cung cấp động cơ. Từ năm 1995 cho đến 1997, đội đã sử dụng động cơ mười xi-lanh của Peugeot bởi vì Eddie Jordan muốn phát triển cơ sở hạ tầng của đội tốt hơn và mức độ phát triển cao hơn từ Peugeot so với Hart.

Jordan ban đầu có thể duy trì phong độ với sự hỗ trợ của Peugeot. Trong mùa giải 1995, các tay đua Barrichello và Irvine lấy điểm thường xuyên và thỉnh thoảng lên bục vinh quang. Đối với mùa giải 1996, đội được tài trợ bởi nhãn hiệu thuốc lá Benson & Hedges cho đến năm 2002. Tuy nhiên, Irvine đã rời Jordan để tham gia Ferrari và tay đua thay thế Martin Brundle - người mà Eddie Jordan đã từng làm việc cùng nhau ở giải Công thức 3 - không thành công mặc dù có kinh nghiệm trong khi thành tích của Barrichello ổn định hơn rất nhiều. Đó là mùa giải Công thức 1 cuối cùng của Brundle và tay đua Barrichello đầy tham vọng đã chuyển sang đội Stewart mới thành lập của cựu vô địch Công thức 1 Jackie Stewart vào năm 1997.

Vào mùa giải 1997, Jordan một lần nữa sử dụng bộ đôi tay đua mới. Em trai của Michael Schumacher, Ralf, đã ra mắt với đội với tư cách là tay đua tân binh. Cùng với tay đua người Ý Giancarlo Fisichella từ Minardi, ông đã tái lập thành tích của mùa giải thành công nhất cho đội có trụ sở Silverstone cho đến nay. Vị trí thứ ba của Schumacher tại giải đua ô tô Công thức 1 Argentina ở Buenos Aires đánh dấu lần đầu tiên ông lên bục vinh quang trong chặng đua thứ 100 của đội, thế nhưng Fisichella phải bỏ cuộc sau một pha va chạm với đồng đội Schumacher. Tuy nhiên, vào cuối mùa giải, Fisichella là tay đua thành công hơn. Ông đạt vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng các tay đua với tổng cộng 20 điểm và đánh bại được Schumacher. Tuy nhiên, Fisichella đã quyết định rời đội và Jordan đã thay thế ông với Damon Hill, nhà vô địch Công thức 1 năm 1996.

1998-1999: Những năm thành công cuối cùng

nhỏ|Heinz-Harald Frentzen ở [[giải đua ô tô Công thức 1 Canada 1999]] Năm 1998, đội đã ký hợp đồng lớn nhất với cựu vô địch thế giới Damon Hill để thay thế Fisichella. Đội cũng đã thay thế nhà cung cấp động cơ Peugeot bằng động cơ Mugen Honda. Cho đến nửa đầu mùa giải, Jordan đã không ghi được một điểm nào do vấn đề về độ bền bỉ của động cơ. Vào thời điểm đó, họ đã ký hợp đồng với kỹ sư Mike Gascoyne từ đội Tyrrell để củng cố đội ngũ kỹ thuật sau khi giám đốc kỹ thuật lâu năm Gary Anderson đã từ chức vài tháng sau đó. Với sự giúp đỡ của Gascoyne, mọi thứ đã được cải thiện đáng kể vào nửa sau mùa giải. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ kịch tính và ẩm ướt năm đó, Hill đã mang về cho đội chiến thắng Công thức 1 đầu tiên sau khi chỉ có mỗi sáu tay đua hoàn thành cuộc đua đó. Ralf Schumacher về đích ở vị trí thứ nhì và giúp đội về đích ở hai vị trí dẫn đầu của cuộc đua đó. Tuy nhiên, đội đã khuyên Schumacher không được phép vượt Hill. Tức giận vì điều này, anh trai Michael của ông nói với đội rằng Ralf sẽ không bao giờ chạy đua cho đội nữa và mua lại hợp đồng của anh trai mình với giá 2 triệu bảng. Sau mùa giải, Hill đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng các tay đua và Ralf đứng thứ 10. Đội đã kết thúc mùa giải này ở vị trí thứ 4 với 34 điểm.

Trong mùa giải này, hai tay đua người Đức Heinz-Harald Frentzen và Ralf Schumacher đổi đội cho năm 1999 (Frentzen chuyển sang Jordan và Ralf chuyển sang Williams) và Hill tiếp tục ở lại đội. Mùa giải của Frentzen đã thành công rực rỡ sau khi ông giành được hai chiến thắng và một vị trí pole. Trong một thời gian ngắn, Frentzen đã là ứng cử viên giành chức vô địch Công thức 1 nhưng sự kém may mắn và các đội đua mạnh hơn là McLaren và Ferrari đã chấm dứt hy vọng giành chức vô địch của ông. Frentzen về thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua và đội cũng về thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua với 61 điểm. Năm 1999 là mùa giải tốt nhất của đội.

Thống kê thành tích

Chú thích cho bảng điểm trên:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Jordan Grand Prix** là đội đua xe ô tô Công thức 1 thi đấu trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2005. Tên đội đua được đặt theo tên của người sáng lập, một
**Michael Schumacher** (biệt danh là **Schumi**; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1969, tại Hürth Hermülheim, Đức) là một cựu tay đua Công thức 1 người Đức. Với thành tích từng 7 lần vô địch
**Rubens "Rubinho" Gonçalves Barrichello** (, sinh ngày 23 tháng 5 năm 1972) là một tay đua xe chuyên nghiệp người Brazil đã thi đấu ở Công thức 1 từ năm 1993 đến năm 2011. Trong
**Giải đua xe Công thức 1 2005** là mùa giải thứ 56 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải đua này diễn ra trong vòng 19 cuộc
**Ralf Schumacher** (sinh ngày 30 tháng 6 năm 1975) là một cựu tay đua người Đức. Ông là em trai của nhà vô địch thế giới công thức 1 bảy lần người Đức Michael Schumacher.
**Panasonic Toyota Racing** là một đội Công thức 1 cũ thuộc sở hữu của nhà sản xuất ô tô Nhật Bản Toyota và có trụ sở tại Köln, Đức. Toyota công bố kế hoạch tham
thumb|upright|[[Sebastian Vettel bảo vệ chức vô địch thành công và vượt qua Fernando Alonso để trở thành nhà vô địch kép trẻ nhất trong lịch sử Công thức 1.]] thumb|upright|[[Jenson Button (McLaren) đứng ở vị
thế=A picture of Lewis Hamilton driving a Mercedes F1 W06 Hybrid formula one car during the 2015 Canadian Grand Prix.|nhỏ|[[Mercedes-Benz in Formula One|Mercedes giành chức vô địch hạng mục đội đua lần thứ hai liên
**Force India Formula One Team Limited**, thường được gọi là **Force India** và sau này là **Sahara Force India**, là một đội đua Công thức 1 cũ có trụ sở tại Silverstone, Vương quốc Anh
**Nick Lars Heidfeld** (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1977 tại Mönchengladbach) là một cựu tay đua người Đức. Anh đã từng thi đấu trong công thức 1 từ năm 2000 đến năm 2011. Anh
**_BlacKkKlansman_** là một bộ phim tội phạm tiểu sử hài kịch đen năm 2018 của Mỹ, do Spike Lee làm đạo diễn và được chắp bút bởi Charlie Wachtel, David Rabinowitz, Kevin Willmott cùng Lee,
**Liên hoan phim Mỹ ở Deauville** (tiếng Pháp: _Festival du cinéma américain de Deauville_) là một liên hoan phim được thành lập từ năm 1975 tại thành phố Deauville (Calvados), Normandie, Pháp bởi Lionel Chouchan
**Cầu lông** hay **vũ cầu** là môn thể thao dùng vợt thi đấu giữa 2 vận động viên (đấu đơn) hoặc 2 cặp vận động viên (đấu đôi) trên 2 nửa của sân cầu hình
**Eurovision Song Contest** (, ), còn gọi là **Eurovision** hoặc viết tắt là **ESC**, là một cuộc thi về các ca khúc được tổ chức luân phiên hàng năm giữa các nước thành viên thuộc
là một tay đua chuyên nghiệp người Nhật Bản. Sato đã đua toàn thời gian trong Dòng IndyCar kể từ năm 2010 cho KV, Rahal, Foyt, Andretti do Honda cung cấp, và bắt đầu lại
**Mahalia Jackson** ( ;26 tháng 10 năm 1911 bà thường được nhắc đến như là "Nữ hoàng Nhạc Phúc âm". Jackson là một trong số những ca sĩ nhạc phúc âm có nhiều ảnh hưởng
**Mohamed Mohamed el-Amir Awad el-Sayed Atta** ( ; __  ; 1 tháng 9 năm 1968 – 11 tháng 9 năm 2001) là một không tặc người Ai Cập và là một trong những người đứng
**Anastasia Huppmann** (tên tiếng Nga: Анастасия Хуппманн, phiên âm tiếng Việt: /a-nas-ta-xia khup-man/, tiếng Anh: /ænəˈsteɪʒə hʌpmæn/) là một nghệ sĩ dương cầm người Áo gốc Nga, thường được nhắc đến nhờ những biểu diễn
**Giải Oscar cho dựng phim xuất sắc nhất** là một trong các giải Oscar được trao hàng năm cho phim và người biên tập được cho là xuất sắc nhất. Giải này được trao từ
thumb|Khorfakkan **Sharjah** (phiên âm: _Sa-gia_; __; tiếng Ả Rập vùng Vịnh: _aš-šārja_) là thủ đô của tiểu vương quốc Sharjah, đồng thời là thành phố đông dân thứ ba tại Các Tiểu vương quốc Ả
**Alan Olav Walker** (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1997), thường được biết đến với nghệ danh **Alan Walker**, là một nam DJ, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người Na Uy gốc
**Bóng đá vì tình bằng hữu** (, ) là giải bóng đá vì Tình hữu nghị là một chương trình xã hội dành cho trẻ em quốc tế do PJSC «Gazprom».Mục tiêu của chương trình
là tập thứ 12 của bộ anime truyền hình _Shin Seiki Evangelion_, do Gainax sáng tạo. Tập phim phát sóng lần đầu trên TV Tokyo vào ngày 20 tháng 12 năm 1995. Anno Hideaki và
**_Tro tàn rực rỡ_** (còn được biết đến với tên ) là một phim điện ảnh chính kịch của Việt Nam năm 2022 do Bùi Thạc Chuyên đạo diễn kiêm biên kịch, được chuyển thể