Ioannes được biết đến trong tiếng Anh với tên gọi Joannes, là Hoàng đế Tây La Mã đồng thời là kẻ cướp ngôi vua La Mã (423–425) nhằm chống lại Hoàng đế chính danh Valentinian III.
Tiểu sử
Thời kỳ trị vì
Sau cái chết của Hoàng đế Honorius (27 tháng 8 năm 423), Theodosius II, người cai trị còn lại của Dòng họ Theodosius do dự trong thông báo cái chết của người chú. Trong thời kỳ đứt quãng ấy, một viên quý tộc của Honorius là Castinus, đưa Joannes lên ngôi Hoàng đế của Đế chế Tây La Mã vào ngày 27 tháng 8 năm 423.
Joannes là một notariorum primicerius (quan chức cấp cao La Mã cổ) tại thời điểm ông được thăng chức. Procopius ca ngợi tính hòa nhã, sự thông mình và các khả năng nói chung của ông. Không giống như Hoàng đế Theodosian, Joannes thể hiện sự khoan dung với tất cả các giáo phái Thiên Chúa giáo. Dưới thời trị vì của ông, các lãnh thổ ở xứ Gaul của Đế chế thường không ổn định và có nhiều cuộc nổi loạn ở nơi đây. Tổng trấn Bonifacius, kiểm soát các tỉnh châu Phi, không công nhận danh hiệu Hoàng đế của Joannes và sự chi phối của ông này đối với các tỉnh ở châu Phi, thậm chí cả quyền cung cấp ngũ cốc cho Roma.
Joannes hy vọng rằng ông có thể đi đến một thỏa thuận với Hoàng đế Theodosius, nhưng khi Theodosius II bầu chọn Valentinian III làm Caesar đầu tiên, sau đó được làm đồng Hoàng đế như một Augustus (chắc chắn chịu ảnh hưởng của mẹ Valentinian là Galla Placidia), Joannes biết là ông chỉ có thể trông đợi một cuộc chiến tranh để giải quyết tình hình hiện giờ. Cuối năm 424, ông gửi một trong những người em của mình, nhưng đầy hứa hẹn là Aëtius làm sứ thần đến chỗ người Hung để tìm kiếm sự giúp đỡ về quân sự nhằm chống lại Valentinian III.
Trong khi Aëtius thực hiện sứ mệnh ngoại giao, thì quân đội của Đế chế Đông La Mã đã bỏ rơi vùng Thessalonica cho Ý, và sớm xây dựng một căn cứ của họ tại Aquileia. Các hành động quân sự không diễn ra như mong muốn của Joannes vì quân đồn trú ở Ravenna được Aspar, con của một viên chỉ huy Đông La Mã thuyết phục họ phản bội lại Hoàng đế để đổi lấy sự an toàn cho gia đình và sự đảm bảo về của cải được tặng thưởng. Sau đó Vị Hoàng đế thất trận bị quân lính phản bội giải tới Aquileia và xử chặt tay, tiếp đến ông bị diễu hành trên một con lừa ở trường đua ngựa phải chịu đựng những lời lăng mạ, xỉ nhục của dân chúng, cuối cùng ông bị xử trảm vào tháng 6 hoặc tháng 7 năm 425.
Ba ngày sau cái chết của Joannes, Aëtius giờ người đứng đầu quan trọng thống lĩnh quân đội người Hung trở lại nước Ý nhằm trả thù cho cái chết của vị Hoàng đế này. Sau một số trận giao tranh dữ dội, Placidia và Aëtius đã đi đến một thỏa thuận thiết lập các định chế chính trị tồn tại riêng biệt của Đế chế Tây La Mã trong suốt ba mươi năm tiếp theo. Người Hung được hối lộ để rời khỏi khu vực này, trong khi Aetius được thăng lên chức Magister militum (Tổng tư lệnh quân đội La Mã).
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ioannes** được biết đến trong tiếng Anh với tên gọi **Joannes**, là Hoàng đế Tây La Mã đồng thời là kẻ cướp ngôi vua La Mã (423–425) nhằm chống lại Hoàng đế chính danh Valentinian
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**Gioan XVIII** (Latinh: _Joannes XVIII_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Gioan XVII và là vị giáo hoàng thứ 141. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm
**Gioan XIV** (Latinh: _Joannes XIV_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Biển Đức VII và là vị giáo hoàng thứ 136 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông
**Gioan XV** (Latinh: **Joannes XV**) là người kế nhiệm giáo hoàng Gioan XIV và là vị giáo hoàng thứ 137. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm
**Gioan X** (Latinh: _Joannes X_) là vị giáo hoàng thứ 121 của Giáo hội Công giáo. Sau khi Giáo hoàng Landonus chết một cách bí ẩn, Joannes X được đưa lên làm Giáo hoàng. Theo
**Flavius Placidius Valentinianus** (2 tháng 7, 419 – 16 tháng 3, 455), được biết đến với tên gọi là **Valentinianus III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 425 đến 455. ##
**Polycarpus** (, _Polýkarpos_) là một nhà lãnh đạo Kitô giáo sống vào đầu thế kỷ 2 CN. Ông là một môn đệ trung kiên của thánh Joannes Tông đồ ở Ephesus. Polycarpus được coi là
**Tổng giáo phận Mechelen-Brussel** (; ; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Bỉ. Tổng giáo phận là nơi đặt ngai tòa giáo trưởng
**Muhammad** (tiếng Ả Rập: ; sống vào khoảng 570 – 632) hay Mohamed (_Hán-Việt: Mục Hãn Mạc Đức_), là một nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội và chính trị người Ả Rập và là
**Gioan XIX** (Latinh: _Joannes XIX_) là người kế nhiệm giáo hoàng Biển Đức VIII và cũng là người của dòng họ Tusculum. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử giáo hoàng
**Gioan XVII** (Latinh: **Joannes XVII**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Silvester II và là vị giáo hoàng thứ 140. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm
**Gioan IX** (Latinh: _Joannes XI_) là vị giáo hoàng thứ 125 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 931 và ở ngôi Giáo
**Gioan IX** (Latinh: **Joannes IX**) là vị giáo hoàng thứ 116 của Giáo hội Công giáo. Sau triều đại của Giáo hoàng Theodore II chỉ kéo dài có 20 ngày, ông được đưa lên làm
**Gioan II** (Tiếng Latinh: _Joannes II_) là người kế nhiệm Giáo hoàng **Boniface II** và là vị Giáo hoàng thứ 56 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông
** Gioan VII** (Tiếng Latinh: _Joannes VII_) là vị giáo hoàng thứ 86 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 705 và cai
**Gioan V** (Tiếng Latinh: _Joannes V_) là vị Giáo hoàng thứ 82 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 685 và ở
Comes **Bonifacius** (Anh hóa là **bá tước Boniface**) (mất năm 432) là một vị tướng La Mã và thống đốc của giáo khu châu Phi. Cùng với đối thủ của mình, Flavius Aëtius, ông đôi
**Theodosius II** (tiếng Latin: _Flavius Theodosius Junior Augustus_; 401 – 450) thường gọi là **Theodosius Trẻ** hoặc **Theodosius Nhà thư pháp**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết
**Quintillus** (; 220 – 270), là Hoàng đế La Mã ở ngôi được gần một năm vào năm 270. ## Tiểu sử ### Gia thế Quintillus sinh ra tại Sirmium ở vùng Hạ Pannonia vào
**Johann Caspar Schröder**, hay **Johannes Caspar Schröder** (; sinh năm 1695; mất năm 1759) là một nhà triết học cổ điển người Hà Lan. Ông từng là giáo viên tại trường Latinh ở Breda và
**Nguyễn Thị Lệ Mai** (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1945), thường được biết đến với nghệ danh **Khánh Ly** là nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt, nổi tiếng với giọng nữ
**Wolfgang Amadeus Mozart** (; tên đầy đủ là **Johannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus Mozart** (27 tháng 1 năm 1756 – 5 tháng 12 năm 1791) là nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những
**Paul Sabatier** (5.11.1854 – 14.8.1941) là một nhà hóa học người Pháp, đã đoạt giải Nobel Hóa học năm 1912. ## Cuộc đời và Sự nghiệp Sabatier sinh tại Carcassonne. Ông học tại trường Pierre
**Marcus Julius Philippus** (; 204-249), còn được gọi là **Philippus I** hay **Philip người Ả Rập** trong tiếng Anh, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 244 đến năm 249. Philippus trở
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
**Mirza Shahab-ud-Din Baig Muhammad Khan Khurram** (5 tháng 1 năm 1592 – 22 tháng 1 năm 1666), còn được gọi là **Shah Jahan I** (; ), là Hoàng đế Mogul thứ 5, trị vì từ
**Gioan XIII** (Latinh: _Joannes XIII_) là vị giáo hoàng thứ 133 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 965 và ở ngôi Giáo
**Sergiô III** (Latinh: _Sergius III_) là vị giáo hoàng thứ 119 của Giáo hội Công giáo. Sau khi Giáo hoàng Lêô V qua đời vào tháng 9 năm 903, ông được đưa lên làm Giáo
**Gioan VIII** (Latinh: **Joannes VIII**) là vị giáo hoàng thứ 107 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 872 và ở ngôi
**Gioan XXII** (Latinh: **Joannes XXII**) là vị Giáo hoàng thứ 196 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1313 và ở ngôi Giáo
**Gioan XXI** (Latinh: **Joannes XXI**) là vị giáo hoàng thứ 187 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1276 và ở ngôi Giáo
**Êugêniô IV** (Latinh: **Eugenius IV**) là vị giáo hoàng thứ 207 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1431 và ở ngôi Giáo
**Sinh đôi dính liền** là cặp sinh đôi giống hệt nhau có phần cơ thể nào đó bị dính lại với nhau. Đây là một trong hiện tượng hiếm khi xảy ra, với tỉ lệ
**27657 Berkhey** (Chính thức: **1974 PC**) là Hỏa Tinh - một tiểu hành tinh. Nó được phát hiện bởi Tom Gehrels ở Đài thiên văn Palomar tại San Diego County, California, ngày 12 tháng 8
**Miltiadê** (Latinh: **Miltiades** hay **Malchiadus**) (Μελχιάδης ὁἈφρικανός trong tiếng Hy Lạp), là người kế nhiệm Giáo hoàng Eusebius và là vị giáo hoàng thứ 32 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Gioan I** (Latinh: **Joannes I**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Hormisdas và là vị Giáo hoàng thứ 53. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử năm 523 và ở ngôi
**Gioan III** (Latinh: _Joannes III_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Pelagius I và là vị Giáo hoàng thứ 61 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Gioan VI** (Tiếng Latinh: **Johnnes VI**) là vị giáo hoàng thứ 85 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 701 và cai
**Sêvêrinô** (Tiếng Latinh: **Severinus**) là vị giáo hoàng thứ 71 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 640 và cai quản giáo
**Gioan IV** (Tiếng Latinh: _Joannes IV_) là vị giáo hoàng thứ 72 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 640 và cai
**Flavius Valerius Constantius** (khoảng ngày 31 tháng 3 năm 250-25 tháng 7 năm 306), thường được gọi là Constantius I hoặc Constantius Chlorus, là Hoàng đế La Mã giai đoạn năm 293-306. Ông là cha
**Năm 425** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện ## Sinh ## Mất * 10 tháng 10 - Atticus, Tổ của Constantinople * Joannes, người cướp ngôi trong Đế quốc Tây La Mã
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Grêgôriô IV** (Latinh:**Gregorius IV)** là vị giáo hoàng thứ 101 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 827 và ở ngôi Giáo
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
Trang này liệt kê các tiêu ngữ (cũng được gọi là "khẩu hiệu") của các quốc gia hay nhà nước trên thế giới, kể cả một số chính thể không còn tồn tại. Tiêu ngữ
**Giải Nansen vì người tị nạn** (tiếng Anh: **Nansen Refugee Award**) là một giải thưởng hàng năm của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn dành cho các cá nhân, các tổ chức
**Aemilianus** (; khoảng 207/213 – 253), là Hoàng đế La Mã được 3 tháng vào năm 253. Aemilianus là chỉ huy quân đội La Mã ở Moesia, nhờ giành một chiến thắng quan trọng chống