✨Hôn nhân đẳng cấp

Hôn nhân đẳng cấp

nhỏ|phải|Nàng [[Esther chấp nhận kết hôn với vua Ba Tư Ahasuerus để trở thành nữ hoàng]] nhỏ|phải|Nàng [[Esther ra mắt vua Ba Tư Ahasuerus]] Hôn nhân đẳng cấp (Hypergamy) hay còn gọi là thượng giá (Marrying up/上嫁/高婚) là một thuật ngữ được sử dụng trong khoa học xã hội để chỉ hành động hoặc việc thực hành của một người phụ nữ chấp nhận hẹn hò hoặc kết hôn với người phối ngẫu có địa vị xã hội cao hơn mình và có hiện trạng tài chính, của cải giàu có hơn mình. Địa vị xã hội (thông qua biểu tượng địa vị) có thể bao gồm các yếu tố như tài chính, học vấn, nghề nghiệp, quyền lực, hay vẻ bề ngoài. Thuật ngữ siêu nam quyền (Hypergyny) cũng có thể được dùng để mô tả thực trạng chung của phụ nữ khi kết hôn với người có địa vị cao hơn, vì đàn ông sẽ lấy người có địa vị thấp hơn. Các khái niệm như chế độ đa thê, chế độ thiểu thê có thể được coi là những trường hợp đặc biệt của Mésalliance (một cuộc hôn nhân không phù hợp, không cân xứng, không đăng đối, đặc biệt là khi một người kết hôn với người có địa vị xã hội thấp hơn mình hay là Quý tiện kết hôn). Xu hướng phụ nữ tìm kiếm đối tác nam giới có địa vị cao hơn, điều này đã tồn tại trong văn hóa từ lâu đời và được thể hiện qua nhiều câu ca dao, tục ngữ, các quan niệm về hôn nhân truyền thống, về gia thế, gia đạo, như "trai tài gái sắc", "xứng đôi vừa lứa" hay "môn đăng hộ đối", "lấy chồng sang", "trèo cao", "thuyền theo lái, gái theo chồng", việc nữ giới kết hôn với nam giới có địa vị cao hơn (chẵng hạn như con gái nhà thường dân kết hôn với quan lại làm thê thiếp, con gái nhà buôn kết hôn với người có học thức, địa vị xã hội, con gái nhà quan lại hạ cấp xin gả cho công tử quan lại thượng cấp, các tiểu thư được mai mối vào gia đình danh gia vọng tộc, hào môn, quyền quý, đài các) là phổ biến và được coi là nâng cao thể diện cho gia đình, dòng tộc.

Nghiên cứu

nhỏ|Nữ hoàng Ai Cập [[Cleopatra trẻ trung tuyệt sắc kết hôn với Caesar Đại đế đã luống tuổi]] Trong một bài báo năm 2016 khám phá sự khác biệt về thu nhập giữa các cặp đôi vào năm 1980 và 2012, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng xu hướng phụ nữ kết hôn với những người đàn ông có thu nhập cá nhân cao hơn mình vẫn tồn tại trong thời hiện đại. Khoảng cách giới tính được quan sát thấy trong việc phân bổ tỷ lệ phần trăm của phụ nữ vào thu nhập hộ gia đình khả dụng và bình quân đầu người (thu nhập hộ gia đình) ở mức 50% có thể được giải thích bằng sở thích kết hôn theo kiểu đa thê về thu nhập của cả nam giới và phụ nữ, cùng với khoảng cách lương theo giới tính. Một nghiên cứu cũng đã phát hiện ra rằng các tập tục hôn nhân truyền thống trong đó đàn ông "kết hôn với người có trình độ thấp hơn" và phụ nữ "kết hôn với người có trình độ học vấn cao hơn" về trình độ học vấn không còn tồn tại ở những quốc gia mà phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn.

Các nghiên cứu về lựa chọn bạn đời ở hàng chục quốc gia trên thế giới đã phát hiện ra rằng đàn ông và phụ nữ cho biết rằng họ ưu tiên những đặc điểm khác nhau khi chọn bạn đời, cả hai nhóm đều thích những người bạn đời hấp dẫn nói chung, nhưng đàn ông có xu hướng thích những người phụ nữ trẻ trong khi phụ nữ có xu hướng thích những người đàn ông giàu có, có học thức và tham vọng. Họ lập luận rằng khi xã hội chuyển dịch theo hướng bình đẳng giới hơn thì sở thích lựa chọn bạn đời của phụ nữ cũng thay đổi. Một số nghiên cứu chỉ hỗ trợ hạn chế cho lý thuyết đó trong khi các nghiên cứu khác lại phản bác mạnh mẽ điều đó.. Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ có tính chọn lọc cao hơn ("kén cá chọn canh") trong việc lựa chọn bạn đời so với nam giới dễ dãi hơn. Một nghiên cứu được Đại học Minnesota triển khai thực hiện vào năm 2017 cho thấy phụ nữ thường thích những người đàn ông có xu hướng thống trị làm bạn đời.

Nhà nghiên cứu Gilles Saint-Paul (2008) đưa ra một mô hình toán học nhằm chứng minh rằng hiện tượng nữ giới kết hôn với người có địa vị cao hơn ("trèo cao"/"lấy chồng sang") diễn ra ra là do phụ nữ phải chịu chi phí cơ hội mất đi lớn hơn từ việc kết đôi một vợ một chồng. Điều này là bởi vì tỷ lệ sinh sản của phụ nữ chậm hơn và thời gian sinh sản của họ bị giới hạn so với nam giới. Do đó, phụ nữ phải được bù đắp cho cái giá hôn nhân này, theo đó cái giả họ phải trả cho hôn nhân là họ sẽ mất đi cơ hội tiếp cận với những người đàn ông có "chất lượng" (tài chính, địa vị, ngoại hình, thể chất, giống nòi, nguồn gen tốt hơn) mà họ có thể gặp gỡ nếu không bị ràng buộc chung thủy gắn bó. Do phụ nữ có số lượng trứng hạn chế và thời gian sinh sản ngắn hơn so với nam giới, mỗi lần sinh sản là phải có giá trị cao hơn, và việc lựa chọn sai đối tác hoặc cam kết sớm với một đối tác không tối ưu sẽ gây ra "chi phí cơ hội" lớn hơn cho họ, nên theo mô hình của Gilles Saint-Paul, họ cần được "bù đắp" cho chi phí này bằng việc kết hôn với người có địa vị cao hơn như một sự đảm bảo. Carl Jung với trọng tâm là tâm lý học phân tích và vô thức tập thể thì tiếp cận hiện tượng này từ góc độ biểu tượng, nguyên mẫu (Anima và animus). Khi một người phụ nữ tìm kiếm một người đàn ông có địa vị cao hơn, thì đó chính là sự phóng chiếu (projection) cái Animus (nguyên mẫu nam tính) bên trong cô ấy vốn là biểu hiện như một hình ảnh của quyền uy, năng lực, sự vượt trội, dữ thống trị, ổn định, hoặc chất mạnh mẽ, sự bảo vệ, thông qua nguyên mẫu hình ảnh "Người cha" tượng trưng cho sự che chở, dẫn dắt, gia trưởng, và sự an toàn, và đó là một biểu hiện của nhu cầu vô thức tự nhiên của phụ nữ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Nàng [[Esther chấp nhận kết hôn với vua Ba Tư Ahasuerus để trở thành nữ hoàng]] nhỏ|phải|Nàng [[Esther ra mắt vua Ba Tư Ahasuerus]] **Hôn nhân đẳng cấp** (_Hypergamy_) hay còn gọi là **thượng giá**
**Hôn nhân cùng giới** hay **hôn nhân đồng tính** là hôn nhân của hai người cùng giới tính hợp pháp. hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp hóa và công nhận ở 38 quốc
Chile đã công nhận các kết hợp dân sự kể từ ngày 22 tháng 10 năm 2015. Vào ngày 28 tháng 1 năm 2015, Quốc hội đã phê chuẩn dự luật công nhận kết hợp
Romania không công nhận hôn nhân cùng giới hoặc kết hợp dân sự, mặc dù điều này được công nhận quyền cư trú của các cặp vợ chồng cùng giới nếu một đối tác là
Hôn nhân là một vấn đề nan giải ở các khu vực khác nhau của Anh Quốc. **Hôn nhân cùng giới** đã được công nhận và thực hiện ở Anh và xứ Wales từ tháng
**Hôn nhân cùng giới** hợp pháp ở tiểu bang California của Hoa Kỳ, và lần đầu tiên trở thành như vậy vào ngày 16 tháng 6 năm 2008, khi tiểu bang bắt đầu cấp giấy
**Hôn nhân cùng giới** đã trở thành hợp pháp tại **Scotland** vào ngày 16 tháng 12 năm 2014. Vì luật gia đình không dành riêng cho Quốc hội Vương quốc Anh, Quốc hội Scotland có
**Luật hôn nhân** đề cập đến các yêu cầu pháp lý xác định tính hợp lệ của một cuộc hôn nhân và khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. ## Bảng tóm tắt ##
Hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp tại Brasil kể từ ngày 16 tháng 5 năm 2013, theo quyết định của Hội đồng Tư pháp Quốc gia, yêu cầu các công chứng viên của
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
Ý đã công nhận các kết hợp dân sự (tiếng Ý: unione civile) kể từ ngày 5 tháng 6 năm 2016, cung cấp cho các cặp cùng giới với hầu hết các biện pháp bảo
**Hôn nhân cùng giới ở Đài Loan** trở thành hợp pháp vào ngày 24 tháng 5 năm 2019. Điều này khiến Đài Loan trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Á thực hiện hợp
**Hôn nhân cùng giới ở Costa Rica** đã trở thành hợp pháp kể từ ngày 26 tháng 5 năm 2020 theo phán quyết của Tòa án Tư pháp Tối cao. Costa Rica là quốc gia
Việt Nam không công nhận hôn nhân cùng giới, kết hợp dân sự, chung sống có đăng ký hay bất kỳ hình thức tương tự nào khác cho các cặp đôi cùng giới. Hiến pháp
Tại Hà Lan, hôn nhân cùng giới (tiếng Hà Lan: Huwelijk tussen personen van gelijk geslacht hoặc thường là homohuwelijk) đã được hợp pháp kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2001. Hà Lan là
Thụy Sĩ đã cho phép đăng ký bạn đời cho các cặp cùng giới kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, sau cuộc trưng cầu dân ý năm 2005. Dự luật hợp pháp hóa
Hôn nhân cùng giới ở Cộng hòa Ireland đã được hợp pháp kể từ ngày 16 tháng 11 năm 2015. Một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 22 tháng 5 năm 2015 đã sửa
Hôn nhân cùng giới đã hợp pháp tại Nam Phi kể từ khi Đạo luật dân sự bắt đầu có hiệu lực vào ngày 30 tháng 11 năm 2006. Quyết định của Tòa án Hiến
Quyết định của Tòa án tối cao tại luật _Obergefell v. Hodges_ rằng hôn nhân hợp pháp hóa hợp pháp ở các bang và hầu hết các vùng lãnh thổ không hợp pháp hoá hôn
**Hôn nhân cùng giới ở Thụy Điển** được hợp pháp kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2009, sau khi áp dụng luật mới về tình dục về hôn nhân của Nghị viện Thụy Điển
thumb|Hai bàn tay siết chặt trong **hôn nhân**, được người [[La Mã cổ đại lý tưởng hóa như là khối nhà nền tảng của xã hội và là một sự đồng hành của hai người
**Luật Hôn nhân và Gia đình** là một đạo luật của Việt Nam được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I, kỳ họp thứ 11 thông qua vào ngày 19 tháng
Hôn nhân cùng giới được hợp pháp ở Ecuador kể từ ngày 12 tháng 6 năm 2019, khi Tòa án Hiến pháp phán quyết rằng cấm kết hôn cùng giới là vi hiến theo Hiến
**Hôn nhân cùng giới** không hợp pháp ở Israel. Chính phủ Israel đã đăng ký kết hôn cùng giới được thực hiện ở nước ngoài vì một số mục đích từ năm 2006. Tuy nhiên,
Hôn nhân cùng giới được công nhận và thực hiện ở **New Zealand**. Một dự luật hợp pháp hóa đã được Hạ viện New Zealand thông qua vào ngày 17 tháng 4 năm 2013 với
**Hôn nhân cùng giới** đã trở thành hợp pháp tại **Đan Mạch** vào ngày 15 tháng 6 năm 2012. Dự luật hợp pháp hóa, được giới thiệu bởi Chính phủ Helle Thorning-Schmidt, đã được Folketing
Hôn nhân cùng giới đã hợp pháp tại Na Uy vào ngày 1 tháng 1 năm 2009, khi một dự luật hôn nhân trung lập giới được ban hành sau khi được Quốc hội Na
Hôn nhân cùng giới tại Argentina đã hợp pháp kể từ ngày 22 tháng 7 năm 2010. Argentina là quốc gia đầu tiên ở châu Mỹ Latin, thứ hai ở châu Mỹ, và thứ hai
**Hôn nhân cùng giới** đã được hợp pháp ở bang **Aguascalientes** của Mexico kể từ ngày 2 tháng 4 năm 2019. Vào ngày đó, Tòa án Công lý Tối cao của Quốc gia (SCJN) đánh
**Ba Lan** không công nhận về mặt pháp lý hôn nhân cùng giới, dưới dạng kết hôn hoặc kết hợp dân sự. Vào năm 2012, Tòa án tối cao phán quyết rằng các cặp cùng
Hungary đã cung cấp kết hợp dân sự (tiếng Hungary: bejegyzett élettársi kapcsolat) cho các cặp cùng giới kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2009. Tổ chức này cung cấp gần như tất cả
Cộng hòa Séc cung cấp quan hệ đối tác đã đăng ký (tiếng Séc: registerrvané Partnerství) cho các cặp cùng giới. Quan hệ đối tác đã đăng ký cấp một số quyền kết hôn, bao
Hôn nhân cùng giới đã trở thành hợp pháp tại Malta vào ngày 1 tháng 9 năm 2017, sau khi thông qua luật pháp tại Quốc hội vào ngày 12 tháng 7 năm 2017. Dự
Hôn nhân cùng giới được công nhận hợp pháp trên toàn bộ México kể từ 31 tháng 12, 2022. Kết hợp dân sự đã được thực hiện hợp pháp tại Thành phố México và ở
Hôn nhân cùng giới đã được công nhận hợp pháp tại Quận Columbia (Washington, D.C.) kể từ ngày 18 tháng 12 năm 2009, khi Thị trưởng Adrian Fenty ký một dự luật do Hội đồng
**Cuộc hôn nhân của Billie Ert và Antonio Molina** diễn ra vào ngày 5 tháng 10 năm 1972 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ. Cuộc hôn nhân của Ert và Molina được gọi là cuộc hôn
Hôn nhân cùng giới đã chính thức được công nhận tại Thái Lan kể từ ngày 23 tháng 1 năm 2025. Luật hôn nhân cùng giới được chính phủ của Thủ tướng Srettha Thavisin và
Hôn nhân cùng giới không được công nhận tại Nhật Bản. Kể từ năm 2018, 9 thành phố và phường thành phố hợp pháp hóa quan hệ bạn đời cùng giới, cung cấp một số
Hôn nhân cùng giới ở Estonia sẽ được hợp pháp kể từ 1 tháng 1, 2024. Estonia đã công nhận các kết hợp dân sự kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2016 bằng cách
Guam, một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ, đã bắt đầu cấp phép và công nhận các cuộc hôn nhân cùng giới vào ngày 9 tháng 6 năm 2015, sau phán quyết của
Hôn nhân cùng giới đã trở thành hợp pháp tại bang Nuevo León của México vào ngày 19 tháng 2 năm 2019, với phán quyết của Tòa án Công lý Tối cao của Quốc gia
Dưới đây là dòng thời gian các sự kiện quan trọng liên quan đến hôn nhân cùng giới và sự công nhận hợp pháp của các cặp đồng tính trên toàn thế giới. ## Bảng
**Đạo luật Hôn nhân Sửa đổi (Định nghĩa và Tự do Tôn giáo) 2017** (tiếng Anh: _Marriage Amendment (Definition and Religious Freedoms) Act 2017_) là Đạo luật của Quốc hội Úc, điều chỉnh hôn nhân
Bulgaria không công nhận bất kỳ loại hôn nhân cùng giới. Các chủ đề của hôn nhân cùng giới, quan hệ đối tác đăng ký cùng giới, nhận con nuôi của các cặp cùng giới
Hôn nhân cùng giới và cùng nhận con nuôi của các cặp cùng giới hợp pháp tại Slovenia từ ngày 8 tháng 7, 2022. Slovenia đã công nhận kết hợp dân sự (tiếng Slovenia: partnerska
Liechtenstein đã công nhận kết hợp dân sự kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2011. Một dự luật hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới đã được thông qua vào ngày 16 tháng 5
Síp đã công nhận kết hợp dân sự kể từ ngày 9 tháng 12 năm 2015 bằng cách cho phép các cặp cùng giới tham gia kết hợp dân sự (tiếng Hy Lạp: πολιτική συμβίωση).
**Hôn nhân cùng giới** đã trở thành hợp pháp tại **Colombia** vào ngày 28 tháng 4 năm 2016, khi Tòa án Hiến pháp Colombia phán quyết bằng một cuộc bỏ phiếu 6-3 cấm kết hôn
Hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp tại bang Nayarit của Mexico kể từ ngày 23 tháng 12 năm 2015. Một dự luật hợp pháp hóa đã được Quốc hội tiểu bang phê duyệt
Hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp tại bang Coahuila của Mexico kể từ ngày 17 tháng 9 năm 2014, dựa trên ngày có hiệu lực được thiết lập bởi luật pháp được thông