✨Homo luzonensis

Homo luzonensis

Homo luzonensis, còn được dân địa phương gọi là "Ubag" theo tên một người thượng cổ trong thần thoại, là một loài người cổ xưa đã tuyệt chủng, từng sinh tồn trong giai đoạn Canh Tân muộn ở Luzon, Philippines. Di cốt của họ, bao gồm răng và đốt xương, mới chỉ được phát hiện duy nhất tại Hang Callao ở phía bắc hòn đảo, với niên đại sớm hơn 50.000 năm trước. Hồi năm 2010, số xương cốt đây được cho là thuộc về người hiện đại; song vào năm 2019, sau các phát hiện mới, người ta đã đính chính gán lại các mẫu vật cho một loài người hoàn toàn mới, dựa trên các đặc điểm trộn lẫn giữa người hiện đại, các Homo thuở sớm và thậm chí cả các loài vượn nhân cổ xưa, chẳng hạn Australopithecus.

Loài người này có lẽ là hậu duệ của nhánh H. ​​erectus châu Á hoặc loài Homo nào đó khác còn cổ xưa hơn thế. Loài tổ tiên đó chắc hẳn đã phải vượt biển ít nhất vài dặm để đặt chân lên hòn đảo. Sự hiện diện của chi người tại Luzon có niên đại muộn nhất khoảng từ 771.000 đến 631.000 năm trước. Năm 2019, sau khi phát hiện thêm 12 mẫu vật mới và dựa trên các đặc điểm vừa giống người hiện đại vừa giống chi Australopithecus nguyên thủy, họ đính chính số di cốt đó (cùng các mảnh di cốt hominin khác trong hang) thuộc về một loài mới, đặt danh pháp là Homo luzonensis theo tên hòn đảo.

Mẫu định danh CCH6 bao gồm các răng tiền hàm và các răng hàm nằm về phía bên phải của hàm trên. Các cận mẫu là: CCH1, xương bàn chân thứ ba về bên phải; CCH2 và CCH5, hai đốt ngón tay; CCH3 và CCH4, hai đốt ngón chân; CCH4, một răng tiền hàm bên trái; và CCH9, răng hàm thứ ba bên phải. Mẫu CCH7 là mẩu xương đùi của một cá nhân vị thành niên. Toàn bộ số mẫu này đại diện cho ít nhất ba cá nhân. Chúng hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Philippines, Manila. Tương tự H. floresiensis, H. luzonensis có một số đặc điểm rất giống Australopithecus và các Homo sơ kỳ, hơn là so với người hiện đại và các Homo hậu kỳ.

Văn hóa

thumb|upright=1.5|Tổ tiên của H. luzonensis đã vượt [[Đường Huxley vào Philippines.]]

Bởi lẽ Luzon đã là một đảo cô lập kể từ kỷ Đệ Tứ, tổ tiên của H. luzonensis chắc hẳn đã phải vượt biển một quãng khá xa để qua được Đường Huxley.

Người ta đã phát hiện một bộ xương tê giác (loài tuyệt chủng Rhinoceros philippinensis) khá hoàn chỉnh ở Hang Minori trong Thung lũng Cagayan, miền bắc Luzon, có dấu hiệu bị xẻo thịt khoảng 771–631.000 năm trước. Năm 1981, các nhà khảo cổ phát hiện ở đây 6 hạch đá, 49 mảnh tước, và 2 hòn ghè, tương tự như kỹ nghệ đá phiến silic từ khu khảo cổ Arubo 1 sơ kỳ đá cũ tọa lạc miền trung Luzon. Di cốt của Stegodon, hươu Philippine, rùa nước ngọt, và kỳ đà, cũng được phát hiện ở đó.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Homo luzonensis_**, còn được dân địa phương gọi là "**Ubag**" theo tên một người thượng cổ trong thần thoại, là một loài người cổ xưa đã tuyệt chủng, từng sinh tồn trong giai đoạn Canh
thumb|Cảnh quan hoang dã vào [[Thế Canh Tân muộn ở Bắc Tây Ban Nha, bởi Mauricio Antón (trái sang phải: _Equus ferus_, _Mammuthus primigenius_, _Rangifer tarandus, Panthera leo spelaea, Coelodonta antiquitatis_)]] Kỷ Đệ tứ (từ
**Người Denisova** là một loài hoặc một phân loài người cổ xưa từng sinh sống trên hầu khắp châu Á khoảng từ giai đoạn sơ kỳ tới trung kỳ đá cũ (theo các chứng cứ