✨Hoàng Lê nhất thống chí

Hoàng Lê nhất thống chí

Hoàng Lê nhất thống chí (chữ Hán: 皇黎一統志), hay An Nam nhất thống chí (chữ Hán: 安南一統志), hay Lê quý ngoại sử (chữ Hán: 黎季外史) là cuốn tiểu thuyết văn xuôi viết bằng chữ Hán, nằm trong bộ Ngô gia văn phái tùng thư của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

Tác giả

Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi, ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh trả lại Bắc Hà cho Vua Lê đến khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống nhất cả nước. Đây là tác phẩm viết theo thể chí – một lối văn ghi chép sự vật, sự việc, do một số tác giả kế tục nhau viết, trong những thời điểm khác nhau. Được sáng tác trong khoảng thời gian dài từ cuối Triều Lê sang đầu Triều Nguyễn (cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX). Toàn bộ tác phẩm gồm có 17 hồi.

Bảy hồi đầu tiên là phần chính biên do Ngô Thì Chí viết, mười hồi tiếp theo là phần tục biên, trong đó có 7 hồi được cho là Ngô Thì Du viết, còn 3 hồi cuối cùng viết có tính chất chắp vá, lại có cả những sự việc thời Tự Đức, tương truyền do Ngô Thì Thuyết (có người đọc là Thiến), còn các nhà nghiên cứu cho là có thể của một tác giả vô danh khác.

Văn bản

Hiện nay bản gốc chữ Hán không còn, và cũng chưa được khắc in. Người ta sưu tầm được tất cả 12 dị bản Hoàng Lê nhất thống chí bằng chữ Hán dạng viết tay:

  • 6 bản của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang các ký hiệu: : A. 22/1- 2 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí. Học Tống Công trứ, Trưng Phủ Công tục); : A. 883 (in ảnh trên giấy tây, tiêu đề Lê quý ngoại sử. Sơn Nam Thành Oanh huyện Tả Thanh Oai Thiêm thư Ngô Thì Thuyến soạn, Long phi Kỷ Hợi niên (1899) hạ lục nguyệt thập ngũ nhật. Hàn lâm viện Thị độc sung Bắc kỳ Thống sứ phủ thực thụ đệ ngũ hạng Lục sự Nguyễn Hữu Thường phụng lục); : Vhv. 1542/1-2(tiêu đề An Nam nhất thống chí, bản này cùng loại với bản do Nguyễn Hữu Thường chép); Vhv. 1296 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí); Vhv. 1534/- 2 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí, có dấu ấn của Hoàng Xuân Hãn); : Vhv. 1534/b (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí. Chỉ có 8 hồi đầu, hồi thứ 8 đang chép dở), một bản của Thư viện Quốc gia Hà Nội (tiêu đề An Nam nhất thống chí, chỉ có 7 hồi đầu);
  • 4 bản của Thư viện Hiệp hội châu Á Paris, mang các ký hiệu: : HM. 2224(7) (tiêu đề An nam nhất thống chí, chép từ sách Ngô gia văn phái. Tập 7. Quyển 19-20, phần Học Tống Công di thảo); : HM. 2134 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí Học Tống Công trứ, Trương Phủ Công tục: bản này chép từ bản A.22 của Viện Nghiên cứu Hán Nôm); :* Ms. b.21 (tiêu đề Hoàng Lê nhất thống chí Gia Long tam niên Giáp Tý (1804) quý đông sóc, Lê Cảnh Hưng Quý Mùi khoa Tiến sĩ Tả Thanh Oai nhân Ngô Thì Nhậm biên tập (tiêu đề An Nam nhất thống chí, Thiêm thư binh chương Học Tốn Công di thảo; đây là sách của Fonds Demiéville).

Nội dung

Tác phẩm được viết dưới dạng chương hồi, gồm 17 hồi. Tác phẩm chủ yếu phản ánh cuộc tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến thời Lê mạt và phong trào Tây Sơn.

Tác phẩm miêu tả khoảng hơn 30 năm cuối thế kỷ 18, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1767) đến lúc Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802). Đây chính là giai đoạn rất nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam, cả cơ cấu xã hội phong kiến cùng những hình thái ý thức, tư tưởng, đạo đức... hầu như bị đảo lộn và lay chuyển tận gốc.

Ngoài triều, quan lại, tướng tá nhiều người tráo trở bất lương, không còn giữ đạo vua tôi. Mai Doãn Khuê vừa bày mưu cho kiêu binh xong lại đi tố cáo, Nguyễn Cảnh Thước công khai đòi tiền mãi lộ và lột áo bào của vua Chiêu Thống trên đường chạy trốn.

Hoàng Lê nhất thống chí còn phản ánh phần nào cuộc sống của nhân dân thời Lê mạt: cuộc sống không có trật tự, không an toàn, không ấm no trước nạn binh hỏa và nạn đói.

Một phần lớn nội dung tác phẩm phản ánh khá đậm nét về nhà Tây Sơn. Dù đứng trên lập trường ủng hộ nhà Hậu Lê đối lập, các tác giả dành nhiều sự trang trọng đối với lực lượng Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Huệ. Ông được mô tả là một "anh hùng hào kiệt", "dũng mãnh và có tài cầm quân". Trận Ngọc Hồi – Đống Đa đánh đuổi quân Thanh cũng được tác phẩm phản ánh khá chi tiết.

Văn học

Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tự sự lịch sử. Trên thực tế, tác phẩm không giữ nguyên thi pháp cổ điển của thể loại như mô tả ngoại hình nhân vật theo lối tượng trưng, ước lệ, mà có những đặc điểm được các nhà nghiên cứu đánh giá là đậm sắc thái của Việt Nam.

Bản dịch của Ngô Tất Tố có lời văn lưu loát được nhiều người thưởng thức, nhưng chỉ là bản dịch thoát, một số câu hoặc đoạn bị bỏ hẳn không dịch. Ngoài việc thêm bớt, sửa chữa văn từ, dịch giả còn bố cục lại tác phẩm, chia từ 17 hồi thành 21 chương, làm cho tác phẩm giống một bản phóng tác.

Nhóm Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch đã dịch lại tác phẩm trong những năm 1960 trên tinh thần trung thành với nguyên tác. Bản dịch Hoàng Lê nhất thống chí được xuất bản năm 1964, sau đó tái bản lần 2 năm 1970, lần 3 năm 1984 và lần 4 năm 1987. Hiện tại bản dịch này cũng là bản dịch cho văn bản cùng tên in trong sách giáo khoa Ngữ Văn 9 của chương trình giáo dục trung học cơ sở hiện hành.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Hoàng Lê nhất thống chí_** (chữ Hán: 皇黎一統志), hay **An Nam nhất thống chí** (chữ Hán: 安南一統志), hay **Lê quý ngoại sử** (chữ Hán: 黎季外史) là cuốn tiểu thuyết văn xuôi viết bằng chữ Hán,
Hoàng lê nhất thống chí , An Nam nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có giá trị nhất trong Bộ Ngô gia văn phái tùng thư trên cả phương
**Lê Chiêu Thống** (chữ Hán: 黎昭統 1765 – 1793) hay **Lê Mẫn Đế** (chữ Hán: 黎愍帝), tên thật là **Lê Duy Khiêm** (黎維Tập tin:Nom Character ⿰礻兼.svg), khi lên ngôi lại đổi tên là **Lê Duy
**Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí** (皇越一統輿地志) là sách địa chí do Lê Quang Định Thượng thư Bộ Binh khởi sự biên soạn chỉ sau 1 năm ngày lên ngôi của vua Gia Long
Trong lĩnh vực khảo cứu, dịch thuật, Ngô Tất Tố là người có những công trình nghiêm túc, như bộ Việt Nam văn học, các bộ Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Đường Thi, Lão Tử,
Trong lĩnh vực khảo cứu, dịch thuật, Ngô Tất Tố là người có những công trình nghiêm túc, như bộ Việt Nam văn học, các bộ Hoàng Lê nhất thống chí, Đường Thi, Lão Tử,
Trong lĩnh vực khảo cứu, dịch thuật, Ngô Tất Tố là người có những công trình nghiêm túc, như bộ Việt Nam văn học, các bộ Hoàng Lê nhất thống chí, Đường Thi, Lão Tử,
**_Đại Nam nhất thống chí_** () là bộ sách dư địa chí (địa lý – lịch sử) Việt Nam, viết bằng chữ Hán do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức.
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Duy Vĩ** (chữ Hán: 黎維禕; 1745 - 1772), hay **Lê Hựu Tông** (黎佑宗), còn gọi là **An Định Thái Tử** (安定太子), là một Hoàng thái tử dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch
nhỏ|284x284px|Hoàng thất Nhật Bản năm 2013 **Hoàng thất Nhật Bản** (kanji: 皇室, rōmaji: _kōshitsu_, phiên âm Hán-Việt: _Hoàng Thất_) là tập hợp những thành viên trong đại gia đình của đương kim Thiên hoàng. Theo
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Hoàng Lê Kha** (1917-1960) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam thời hiện đại. Sau luật 10-59 dưới thời Ngô Đình Diệm, ông bị kết án tử hình bằng cách chém đầu. Có
**Hoàng Đình Bảo** (1743-1782) là Huy Quận công (còn gọi là **Quận Huy**) thời Lê-Trịnh, trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Hoàng Đình Bảo (黄廷寶), trước tên ông là **Đăng Bảo** (登寶), lại
Tại Nhật Bản, là tước vị được dành cho chính thất của Thiên hoàng, khi một người phụ nữ ngồi vào ngôi vị Nhật hoàng, bà ta sẽ được gọi là hay . Nhật Bản
Dòng kế vị ngai vàng của hoàng gia Nhật Bản dựa trên Luật gia đình hoàng gia. Hiện tại, chỉ có nam giới được phép lên ngôi. ## Luật liên quan Hiến pháp Nhật Bản
**Ngô Thì Chí** (吳時俧, 1753 - 1788) là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 18 thời Lê trung hưng ## Tiểu sử **Ngô Thì Chí** tên chữ là **Học Tốn**, hiệu là **Uyên Mật**,
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Thanh Cao Tông** (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng Đế** (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Vụ án năm Canh Tý** xảy ra vào tháng 9 năm Canh Tý (1780). Đây là một vụ án lớn đã xảy ra ngay trong phủ chúa Trịnh, mà bên nguyên đơn là Nguyễn Huy
**Dương Trọng Tế** (, 1727-1787), trước có tên là** Dương Trọng Khiêm**, là một văn thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Ông là người xã Lạc Đạo, huyện
**Điện Đô vương Trịnh Cán** (chữ Hán: 奠都王鄭檊, 1775 – 17 tháng 12, 1782) là vị chúa Trịnh thứ 9 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở miền Bắc Đại Việt thời nhà Lê trung
**Nạn kiêu binh** hay **loạn kiêu binh** (_Kiêu binh chi loạn_, 驕兵之亂) là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, do những quân lính gốc
nhỏ|Chiêu Hiến Hoàng hậu trong bộ lễ phục, ảnh chụp năm 1872 , hay , là Hoàng hậu của Đế quốc Nhật Bản, chính cung của Thiên hoàng Minh Trị. ## Thời thơ ấu Lúc
là Hoàng hậu của Thượng Hoàng Akihito. Bà là người có xuất thân thường dân đầu tiên kết hôn với thành viên của Hoàng thất Nhật Bản. Từng là Hoàng thái tử phi và sau
**Tiểu thuyết** (chữ Hán: 小說) là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
Giao thông và liên lạc tại Việt Nam thời Quân chủ Việt Nam không được quan tâm nhiều và phát triển chậm, chủ yếu do những hạn chế và yếu kém về kỹ thuật. Về
; sinh ngày 11 tháng 9 năm 1966 với tên khai sinh là phu nhân của Hoàng tự Thu Tiểu cung Thân vương Fumihito, con trai thứ của Thượng hoàng Akihito và Thượng hoàng hậu
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
là Hoàng hậu thứ 124 trong lịch sử Nhật Bản, chính thất của Chiêu Hòa Thiên hoàng, tại vị Hoàng hậu từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989, thân
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
Thiên hoàng Akihito của Nhật Bản thoái vị vào ngày 30 tháng 4 năm 2019, sự kiện này khiến ông trở thành hoàng đế Nhật Bản đầu tiên thoái vị trong hơn hai thế kỷ
nhỏ||315x315px nhỏ|255x255px|Đền thờ Ninh Tốn **Ninh Tốn** (chữ Hán: 寧遜, 1744-1795), tự **Khiêm Như** sau đổi là **Hi Chí**, hiệu **Mẫn Hiên**, **Chuyết Sơn cư sĩ**, **Song An cư sĩ**; là nhà thơ, nhà sử
Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) đã cho khắc hai bài thơ lên vách đá, một ở núi Pú Huổi Chỏ (nay thuộc xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu), một ở núi
thumb|[[Akihito|Thiên hoàng Akihito - vị Thái thượng Thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản.]] , gọi tắt là , là tôn hiệu Thái thượng hoàng của các Thiên hoàng - những vị quân chủ Nhật
**Bùi Dương Lịch** (; 1757 – 1828) có tên tự là **Tồn Thành** (存成), hiệu **Thạch Phủ** (石甫) và **Tồn Trai** (存齋) ; là một nhà giáo và là văn thần trải ba triều đại
là vợ của Thiên hoàng Naruhito, Hoàng hậu của Nhật Bản trong Thời kỳ Lệnh Hòa. Bà trở thành thành viên của Hoàng gia Nhật Bản thông qua cuộc hôn nhân với Thiên hoàng Naruhito.
**Đinh Tích Nhưỡng** (chữ Hán: 丁錫壤) là một võ tướng triều Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Xuất thân Đinh Tích Nhưỡng dòng dõi danh tướng Đinh Văn Tả, quê làng Hàm
**Nguyễn Văn Bảo** (阮文寶, 1776 – 1798), hay còn gọi là **Nguyễn Bảo** (阮寶), con của Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc của nhà Tây Sơn. ## Tiểu sử Nguyễn Bảo là con trưởng của
**Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn** (còn gọi là am đạo) là một tập tục cổ, có từ xa xưa, là một lễ hội truyền thống của người dân vạn chài tại vùng biển Đồ
**Lê Khôi** (; ? - 1446), tên thụy là **Vũ Mục**, công thần khai quốc nhà Lê sơ. Ông là con trai của Lê Trừ- anh thứ hai của Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa
**Hoàng Công Chất** (黃公質, 31 tháng 1 năm 1706 - 21 tháng 3 năm 1769), là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn giữa thế kỷ 18, chống lại triều đình
**_An Nam chí lược_** , là một bộ sách sử viết bằng văn xuôi chữ Hán do Lê Tắc (1263 - 1342) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu
**Dương Thị Ngọc Hoan** (chữ Hán: 楊氏玉歡) là một cung tần của Chúa Trịnh Sâm, bà là mẹ sinh của chúa Trịnh Khải. ## Tiểu sử Theo sử sách, Dương Thị Ngọc Hoan là người
**Ngô Tất Tố** (, 1893 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn