✨Họ Đớp ruồi bạo chúa
Họ Đớp ruồi bạo chúa (danh pháp khoa học: Tyrannidae), là một họ chim trong bộ Passeriformes. Họ này là họ chim cận biết hót lớn nhất trên thế giới, chiếm khoảng 25% số lượng loài chim cận biết hót toàn thế giới. Nếu trừ đi các họ Rhynchocyclidae (103 loài, 19 chi), Pipritidae (1 chi, 3 loài), Platyrinchidae (3 chi, 9 loài) và Tachurididae (1 chi, 1 loài) thì họ này bao gồm 320 loài đã biết trong 83 chi. Còn khi gộp cả 4 họ này như IOC đang công nhận hiện nay thì nó là họ chim đa dạng loài còn sinh tồn nhất thế giới. Họ cạnh tranh ngôi vị đa dạng loài nhất thế giới là họ Thraupidae trong Passeroidea, với số lượng loài đã biết hiện tại là 385 loài trong 95 chi.
Chúng là họ chim đa dạng nhất ở mọi quốc gia châu Mỹ, ngoại trừ ở Hoa Kỳ và Canada. Các thành viên rất khác nhau cả về hình dáng, mẫu hình, kích thước và màu sắc. Một số loài đớp ruồi bạo chúa bề ngoài giống với các loài đớp ruồi Cựu thế giới (Muscicapidae), vì thế mà chúng được đặt tên theo, nhưng hai nhóm chim này không có quan hệ họ hàng gần. Họ Muscicapidae là thành viên của Passerida phần lõi trong phân bộ Passeri - là những loài chim dạng sẻ biết hót thật sự, trong khi đớp ruồi bạo chúa là thành viên của phân bộ Tyranni (chim dạng sẻ cận biết hót) nên không có khả năng hót tinh tế như của các loài chim biết hót thật sự.
Phân loại học
Họ này bao gồm 320 loài chia thành 83 chi. Mặc dù Ohlson et al. (2013) ước tính rằng Tyrannidae đã là dòng dõi được chia tách khoảng 25-30 triệu năm trước (giữa thế Oligocen), nhưng sự đa dạng hóa hiện tại của nhóm chim này có niên đại ít nhất là 20 triệu năm. Đớp ruồi bạo chúa vẫn là nhóm chim khó phân loại và nhận dạng nhất, chứa nhiều loài ẩn. Một số đớp ruồi bạo chúa là bí ẩn tới mức vẫn còn mâu thuẫn về việc đó là 1 hay 2 loài bị gộp lại, như đớp ruồi Cordillera (Empidonax occidentalis) và đớp ruồi đường dốc Thái Bình Dương (Empidonax difficilis) ở Bắc Mỹ.
Họ Tyrannidae nghĩa mới thu gọn hơn và có cấu trúc đơn giản hơn so với Tyrannidae nghĩa cũ. Có 3 nhánh chính và 2 nhánh phụ được coi là các phân họ.
Phân họ đầu tiên là Hirundineinae. Đây là một phân họ nhỏ chỉ chứa 6 loài. Ohlson et al. (2008) coi nhóm này là gần nhất với Tyranninae và Fluvicolinae. Ngược lại, Fjeldså et al. (2018) và Tello et al. (2009) tìm thấy nó là chị-em với Elaeniinae. Dữ liệu của Rheindt et al. (2008) đặt chúng ở vị trí cơ sở hơn, là chị em với nhánh bao gồm Elaeniinae, Tyranninae và Fluvicolinae. Ohlson et al. (2013) đặt chúng trong một tam phân cơ sở với Elaeniinae và một nhánh chứa 3 phân họ khác.
Phân họ thứ hai chứa đớp ruồi giống như thuộc chi Elaenia (Elaeniinae). Nó có hai nhánh chính: Euscarthmini và Elaeniini. Ohlson et al. (2008) và Tello et al. (2009) tìm thấy các kết quả rất tương tự cho Euscarthmini. và Roy et al. (1999). DuBay & Witt sử dụng thông tin di truyền bổ sung để cho rằng hai loài Uromyias (U. agilis và U. agraphia) tạo thành nhánh chị em với phần còn lại của Anairetes, trái với các kết luận của Roy et al. (1999). Hiện tại SACC vẫn khuyến nghị sử dụng hai chi.
Tình hình trong tông Elaeniini vẫn khá phức tạp, với các phân tích khác nhau đưa ra các kết quả rất khác biệt, như trong Ericson et al. (2006b), Ohlson et al. (2008), Các phân tích DNA cũng không tránh khỏi mâu thuẫn này. Ohlson et al. (2008) đặt nó ở cơ sở trong Fluvicolinae, còn Tello et al. (2009) đặt nó ở cơ sở của cả Fluvicolinae và Tyranninae. Fjeldså et al. (2018) đưa ra hai giải pháp, trong đó giải pháp thứ nhất cho rằng nó là cơ sở với cả Fluvicolinae và Tyranninae, giải pháp thứ hai cho rằng nó là cơ sở của Tyranninae. không có quan hệ họ hàng với Suiriri. Thay vì thế, Lopes et al. (2018) thấy nó là chị em với Sublegatus. Lopes et al. cũng thiết lập chi mới cho nó là Guyramemua, vì thế đớp ruồi Chapada trở thành Guyramemua affine và chuyển từ Elaeniini sang Fluvicolini.
Tông kế tiếp là Ochthoecini. Fjeldså et al. cũng xác nhận sự sắp xếp các chi. Chi Silvicultrix được tách ra khỏi Ochthoeca, và 4 loài trước đây thuộc chi Myiophobus tạm thời được gọi là "Myiophobus" trong khi chờ tên chi chính thức. Chúng được gọi là nhóm Myiophobus roraimae, bao gồm M. flavicans, M. phoenicomitra, M. roraimae và M. inornatus, không có quan hệ gần với loài điển hình của chi là M. fasciatus. Như thế Myiophobus thật sự chỉ còn 2 loài, là loài điển hình và M. cryptoxanthus. Ohlson et al. (2008, 2013) và Tello et al. (2009) cũng cho kết quả tương tự. Khác biệt thực sự duy nhất liên quan tới việc Sayornis và Mitrephanes có là các đơn vị chị em hay không khi lưu ý rằng Myiophobus thật sự nằm ở vị trí cơ sở đối với Contipini. Phân loại của Empidonax lấy theo Cicero & Johnson (2002) và Johnson & Cicero (2002). Tuy nhiên, Fjeldså et al. (2018) nghi vấn về điều này. Do Eumyiobius nên được sáp nhập vào Knipolegus, nên tại đây nó được gộp trong Knipolegus. Các kết quả của Hosner & Moyle cũng hỗ trợ việc coi đớp ruồi bạo chúa đen Caatinga (Knipolegus franciscanus) như là loài tách biệt với đớp ruồi bạo chúa đen cánh trắng (K. aterrimus), cũng như đớp ruồi bạo chúa chì (K. cabanisi) tách biệt với đớp ruồi bạo chúa đen Jelski (K. signatus).
Phân họ, tông và chi
Các phân họ, tông và chi trong đoạn này xếp theo trật tự phát sinh chủng loài, không xếp theo trật tự bảng chữ cái.
- Hirundineinae: 4 chi, 6 loài. Pyrrhomyias: 1 loài. Hirundinea: 1 loài. Myiotriccus: 1 loài. Nephelomyias: 3 loài. Tách ra từ Myiophobus. Pseudelaenia: 1 loài. Mecocerculus: 1 loài. Uromyias: 2 loài. Anairetes: 6 loài. Polystictus: 2 loài. Culicivora: 1 loài. Pseudocolopteryx: 5 loài. Serpophaga: 6 loài.
- Muscigrallinae: 1 chi, 1 loài. ** Muscigralla: 1 loài.
- Tyranninae: 19 chi, 79 loài. Attila: 7 loài. Legatus: 1 loài. Ramphotrigon: 4 loài. Sirystes: 4 loài. Casiornis: 2 loài. Rhytipterna: 3 loài. Myiarchus: 22 loài. Machetornis: 1 loài. Pitangus: 1 loài. Philohydor: 1 loài. Phelpsia: 1 loài. Megarynchus: 1 loài. Tyranopsis: 1 loài. Conopias: 4 loài. Myiodynastes: 5 loài. Myiozetetes: 4 loài. Empidonomus: 2 loài. Milvunus: 1 loài. ** Tyranus: 14 loài.
- Fluvicolinae: 4 tông, 37 chi, 128 loài. Fluvicolini: 10 chi, 18 loài. ** Guyramemua: 1 loài, tách ra khỏi Suiriri (danh pháp cũ là Suiriri affinis). Sublegatus: 3 loài. Colonia: 1 loài. Arundinicola: 1 loài. Pyrocephalus: 4 loài. Fluvicola: 3 loài. Muscipipra: 1 loài. Gubernetes: 1 loài. Heteroxolmis: 1 loài. Tách ra từ Xolmis. Alectrurus: 2 loài. Ochthoecini: 5 chi, 20 loài. ** Myiophobus: 2 loài. Silvicultrix: 4 loài. "Myiophobus": 4 loài. Không thuộc về Myiophobus thật sự. Chờ xác định tên gọi mới cho chi này. Colorhamphus: 1 loài. * Ochthoeca: 9 loài. * Contopini: 9 chi, 42 loài. Ochthornis: 1 loài. Cnemotriccus: 1 loài. Lathrotriccus: 2 loài. Aphanotriccus: 2 loài. Xenotriccus: 2 loài. Mitrephanes: 2 loài. Contopus: 14 loài. Sayornis: 3 loài. Empidonax: 15 loài. Xolmiini: 13 chi, 48 loài. ** Muscisaxicola: 13 loài. Satrapa: 1 loài. Lessonia: 2 loài. Hymenops: 1 loài. Knipolegus: 12 loài. Cnemarchus: 1 loài. Polioxolmis: 1 loài. Pyrope: 1 loài. Tách ra từ Xolmis. Xolmis: 2 loài. Agriornis: 5 loài. Neoxolmis: 4 loài. Tách ra từ Xolmis. Nengetus: 1 loài. Tách ra từ Xolmis. *** Myiotheretes: 4 loài.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài trong phạm vi họ Đớp ruồi bạo chúa dưới đây dựa theo các kết quả phân tích của các tác giả được đề cập tại phần Phân loại học trên đây.